HV-4: Hoa bìm bìm – vị thuốc “dắt trâu”

Recent Pages: 1  2  3  4  5  6  7  8 9  10 10a 10b 11 12 13 14 15 16 17 18 18a
 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33

Hoa bìm bìm – vị thuốc “dắt trâu”

Bìm bìm là loài cây có hoa đẹp, nhiều màu sắc, lại mọc nhanh và không cần chăm sóc cầu kỳ, nên ở nhiều nước cây thường được trồng làm cảnh, cho leo lên những tấm phên dựng đứng hoặc trên bờ rào, nhìn vào rất đẹp và vui mắt. Ở Nhật Bản, bìm bìm là cây cảnh rất được ưa chuộng.

Hoa Bìm bìm 2013. (1)

Nhưng ở nước ta, mỗi khi nhắc tới loài cây này, nhiều người thường liên tưởng đến câu tục ngữ “giậu đổ bìm leo”. Trong mắt nhiều người, đó là loài cây xấu, chuyên lợi dụng lúc người gặp nạn thừa cơ lấn át. Hoa bìm bìm dù đẹp, nhưng bị coi là thứ “hoa hèn”, nên ít người trồng nó làm cảnh. Tuy nhiên, nếu xét trên phương diện y học, cũng như về giá trị thực dụng, thì định kiến nói trên là quá bất công.

Hoa Bìm bìm tím 2013 (29)

Loài cây kỳ lạ

Bìm bìm là loài cây có rất nhiều đặc tính kỳ lạ. Cây mọc leo lên cao nhờ có thân cuốn, nhưng khác với những loài dây leo khác, dây bìm bìm chỉ quay theo hướng ngược kim đồng hồ, theo chiều đông – Bắc – Tây – Nam. Hoa bìm bìm hình chuông, mọc thành xim ở kẽ lá, với 1 – 3 bông, có thể đổi màu. Từ sáng đến trưa, màu hoa chuyển từ lam nhạt sang hồng hoặc tím. Bí mật này, mãi về sau khoa học mới lý giải được. Sáng sớm, hoa bắt đầu phân giải chất đường và giải phóng khí CO2 ra ngoài, độ kiềm trong hoa tăng lên do nồng độ acid giảm xuống, nên cánh hoa có màu lam nhạt. Khi mặt trời lên cao, hoa bắt đầu hấp thụ thêm khí CO2 khiến cho độ acid trong hoa tăng lên, nên cánh hoa lúc này có màu hồng hoặc tím. Ban ngày, trời nắng, cánh hoa nở xòe ra, nhìn tựa như cái ô che nắng. Trưa đến hoặc lúc trời âm u, cánh hoa cụp lại, như chiếc ô đã gấp, lúc này hoa xoắn lại, theo chiều quay của kim đồng hồ, ngược với chiều quay của thân cây.

Morning Glory (2)

Bìm bìm còn có một tính năng rất quý nữa, đó là có thể hấp thụ một số chất có hại: sulfur dioxid, carbon dioxid, fluorine hydrid, chlorin và hydrogen sulfid… Do đó, trồng bìm bìm làm cảnh, còn có thêm tác dụng làm sạch môi trường.

Hoa Bìm bìm tím 2013 (64)

Truyền thuyết về vị thuốc “dắt trâu”

Hạt bìm bìm trong Đông y có tên là “khiên ngưu tử”, có nghĩa là “thằng bé dắt trâu”. Vì sao vị thuốc lại có tên như vậy?

Xuất xứ của tên “khiên ngưu tử” được nói tới trong sách “Danh y biệt lục” của Đào Hoằng Cảnh (456 – 536), nhưng rất vắn tắt: “Vị thuốc này mọc ở ngoài đồng, có người dắt trâu đến tạ ơn thầy thuốc, nên có tên như vậy”. Chuyện dắt trâu diễn ra cụ thể như thế nào, thì không thấy y thư mô tả. Tương truyền: Có bác nông dân, con mắc bệnh trướng bụng, đưa đi khám, được thầy thuốc cho uống một thứ thuốc tán. Mang về nhà uống, bụng đứa con bắt đầu nhỏ dần, chẳng bao lâu sức khỏe phục hồi như trước. Cả nhà vô cùng cảm kích, bàn đi bàn lại, cuối cùng quyết định mang con trâu vừa tròn 1 tuổi, đến biếu thầy thuốc để tỏ lòng biết ơn. Thế là, bác nông dân bảo con dắt trâu, cùng đến nhà thầy thuốc tạ ơn. Khi hỏi con mình đã được cho uống thứ thuốc gì mà khỏi bệnh, thầy nói: “Đó là thứ mọc hoang ở ngoài đồng, bản thân ta cũng chưa biết vị thuốc có tên là gì! Thằng bé đã dắt trâu tới, thì hãy gọi là “khiên ngưu tử” vậy!” Còn con trâu thầy thuốc từ chối nhất quyết không nhận, bác nông dân đành bảo con dắt trâu trở về. Nhưng từ đó, vị thuốc mới có tên là “khiên ngưu tử”. “Tử” nghĩa là đứa con trai hoặc là hạt giống. Vì vậy “khiên ngưu tử” có thể hiểu là: “Thằng bé dắt trâu”, mà cũng có thể hiểu là “hạt dắt trâu”.

Hoa Bìm bìm 2013. (5)

Vị thuốc “khiên ngưu tử” là hạt đã phơi hoặc sấy khô của cây bìm bìm. Hạt bìm bìm có 2 loại: màu nâu đen và màu vàng nhạt. Loại thứ nhất gọi là “hắc khiên ngưu tử” hoặc “hắc sửu”, loại thứ hai gọi là “bạch khiên ngưu tử” hoặc “bạch sửu”. Màu sắc của hạt không liên quan tới nguồn gốc thực vật của cây, nhưng phụ thuộc vào màu sắc của hoa: hoa màu thẫm (tím hoặc đỏ tía) cho hạt nâu đen; còn hoa màu nhạt (phớt hồng hoặc trắng) cho hạt màu vàng nhạt. Y gia thời cho rằng, “hắc khiên ngưu tử” có tác dụng nhanh và mạnh hơn, còn “bạch khiên ngưu tử” có tác dụng tương đối chậm và bình hòa hơn. Trên lâm sàng, thường dùng cả hai loại với cùng tác dụng.

Bìm bìm tim tím 2013 (5)

Tác dụng phi thường

Đối với người nông dân thời xưa, con trâu là đầu cơ nghiệp”, là thứ quý giá nhất có ở trong nhà; Đem cả gia tài đi tạ ơn, chứng tỏ hạt bìm bìm có thể chữa được cả những bệnh nan y. Sự tích dắt trâu tạ ơn, tuy đã được Đào Hoằng Cảnh ghi lại từ xưa, nhưng phải mãi về sau, với tài dùng thuốc của Lý Thời Trân (1518 – 1593), người đời mới biết rõ những tác dụng phi thường của thứ hạt tưởng như rất tầm thường này. Lý Thời Trân không chỉ là một nhà dược học uyên bác, mà còn là thầy thuốc rất giỏi. Sách “Bản thảo cương mục” còn ghi lại hai trường hợp mắc bệnh nan y, đã chữa trị nhiều nơi, nhiều thầy không khỏi, cuối cùng phải mời đến Lý Thời Trân và ông đã sử dụng hạt bìm bìm chữa cho khỏi bệnh. Ngoài ra, Lý Thời Trân còn phát hiện ra tác dụng mỹ dung, làm đẹp của hạt bìm bìm.

Từ đó, hạt bìm bìm – “khiên ngưu tử” mới thật sự trở nên nổi tiếng. Và cũng từ đó, trong tất cả các sách Đông dược thông dụng, “khiên ngưu tử” là vị thuốc không thể vắng mặt. Trong các sách Đông dược hiện đại, “khiên ngưu tử” được xếp trong nhóm thuốc “tuấn tả trục thủy”, cùng với những vị thuốc như cam toại, đại kích, nguyên hoa, thương lục, ba đậu, thiên kim tử…

Theo Đông y, khiên ngưu có vị cay, tính nóng, hơi có độc, vào 3 kinh: Thủ thái âm phế, túc thiếu âm thận và thủ dương minh đại tràng. Có tác dụng tả thấp nhiệt ở khí phận, trục đờm, tiêu ẩm lợi nhị tiện (đại tiểu tiện) là thuốc chữa tiện bí, cước khí, chủ trị hạ khí, lợi tiểu tiện, chữa cước thũng (phù), sát khuẩn. Trên thực tế, khiên ngưu thường dùng làm thuốc thông đại và tiểu tiện, thông mật, còn sử dụng cả để trị giun.

Liều dùng mỗi ngày 4 – 8g.

Kiêng kỵ: người cơ thể hư nhược, phụ nữ đang có thai không dùng được. Theo tài liệu cổ: không được dùng khiên ngưu tử cùng với ba đậu.

Bìm bìm tim tím 2013 (13)

Một số bài thuốc thường dùng khiên ngưu tử:

– Chữa các chứng thũng trướng: Dùng độc vị khiên ngưu tử, tán mịn, ngày uống 2 lần, mỗi lần 4g, dùng nước chiêu thuốc. Hoặc dùng khiên ngưu tử 10g, nước 300ml, sắc còn 150ml chia 2 lần uống trong ngày. Có tác dụng chữa phù thũng, nằm ngồi không được, uống thuốc nếu tiểu tiện nhiều được thì khỏi.

– Trướng bụng do xơ gan hoặc viêm thận mạn tính: Khiên ngưu tử 80g, hồi hương 40g; tất cả nghiền mịn, trộn đều. Mỗi ngày uống 1 lần, mỗi lần 8g, uống khi đói bụng, chiêu thuốc bằng nước sôi; uống liên tục trong 2 – 3 ngày.

– Chữa phù do viêm thận: Khiên ngưu tử 100g – nghiền mịn, hồng táo (táo tầu) 80g – hấp chín, bỏ hột, giã nát, gừng tươi 500g – giã nát vắt lấy nước, bỏ bã; tất cả đem trộn đều thành một thứ bột nhão, cho vào nồi hấp nửa giờ, trộn đều, lại hấp thêm nửa giờ nữa là được. Lượng thuốc trên chia đều thành 8 phần, ngày uống 3 lần – sáng, trưa, chiều, mỗi lần uống 1 phần, sau 2,5 ngày thì hết; kiêng muối trong 3 tháng.

– Trị giun đũa, giun móc: Khiên ngưu tử 8g, tân lang (vỏ quả cau) 8g, đại hoàng 4g; tất cả đem nghiền mịn, trộn đều, ngày uống 2 lần, vào sáng sớm và buổi chiều khi đói bụng, mỗi lần uống 3 – 4g, dùng nước sôi chiêu thuốc, trẻ nhỏ tùy theo tuổi cần giảm bớt liều.

hoa bìm bìm tim tím 2013  (22)

Giữ gìn vẻ đẹp, chữa nám da

Cho đến nay, dân gian thường sử dụng hạt bìm bìm để làm mờ các nốt tàn nhang và vết nám, theo cách thức ghi trong sách “Bản thảo cương mục” của Lý Thời Trân như sau: Dùng “hắc khiên ngưu tử” (hạt bìm bìm có màu nâu đen) nghiền thành bột mịn, trộn với lòng trắng trứng gà, tối trước khi đi ngủ xoa đều lên da mặt, sáng dậy rửa sạch; bôi liên tục, tới khi các vết nám mờ hết thì ngừng. Làm như vậy còn có tác dụng phòng và chữa trị mụn trứng cá.

Ngoài ra, hạt bìm bìm còn được sử dụng để giữ gìn vẻ dẹp theo một số cách khác như sau:

– Làm mịn da mặt: Hắc khiên ngưu tử (sao), bạch chỉ, linh lăng hương, cam tùng, quát lâu nhân – mỗi thứ 100g, trà tử 200g, tạo giác mạt (trái bồ kết tán mịn) 200g. Tất cả đem nghiền thành bột mịn, trộn đều, ngày xoa lên da mặt 3 – 4 lần.

– Chữa mụn trứng cá: Dùng hắc khiên ngưu tử tẩm rượu 3 ngày. Sau đó vớt hạt ra, phơi khô, nghiền thành bột mịn. Trước hết giã gừng tươi vắt lấy nước cốt bôi lên chỗ da bị bệnh, sau đó rắc bột thuốc lên; mỗi ngày 2 – 3 lần.

– Làm mờ các vết đen trên da mặt: Hắc khiên ngưu tử, bạch cương tàm, tế tân, các vị thuốc dùng liều lượng bằng nhau, nghiền thành bột mịn. Hòa với nước ấm để rửa mặt, ngày 3 – 4 lần.

(Theo Lương y Huyên Thảo // Báo Sức khỏe và Đời sống)

Có thể tìm hiểu thêm về Hoa Bìm Bìm tại website: http://hannahlinhflower2.wordpress.com/cotg-14-bim-bim-tim-tim/

Bìm bìm tim tím 2013 (8)

Hoa Chi Anh

Vào cuối mỗi mùa xuân, công viên Hitsujiyama ở Chichibu, tỉnh Saitama (Nhật Bản) lại như được phù phép trở thành những thảm hoa rực rỡ sắc màu.

Những thảm hoa này mang nhiều màu sắc, nhưng chủ yếu là 3 màu trắng, hồng và tím.
Đó chính là loài hoa Chi Anh, hay người Nhật gọi đó là hoa Shibazakura,
trong tiếng Anh nó được đặt là Pholox.


Hoa Chi Anh thuộc loại thảo, cây hoa chỉ cao từ 20-30cm nên khi trồng sát với nhau, chúng có thể tạo ra một thảm cây phủ kín, thấp dưới mặt đất.
Loài hoa 5 cánh đơn mỏng manh này có nhiều màu sắc khác nhau, có màu tím, tím viền trắng, tím đỏ hay trắng.

Để đắm chìm trong thiên đường hoa Chi Anh, các bạn cần 300 yên Nhật
(khoảng 80K) để mua vé vào cổng. Công viên Hitsujiyama chỉ cách
thủ đôTokyo 90 phút tàu điện ngầm và 30 phút đi bộ từ ga Yokoze.

Quang-Canh-xung-quanh-Bo-De-Dao-Trang-Dec-2012-2-1024x768

  1. SA LA CÓ PHẢI LÀ CÂY DIỆT PHÁP HAY KHÔNG ?

    HỎI:Vì sao Đức Phật lại chọn xứ Kusinàra (Câu Thi Na), dưới hai cây sa la để nhập Niết bàn? Có người nói rằng, sa la là cây “diệt pháp”, không nên trồng cây này. Vậy có nên trồng sa la không? Tại sao?(AN TÂM, Long Thành, Đồng Nai,NGUYỄN MAI, Thủ Dầu Một, Bình Dương)

ĐÁP: Bạn An Tâm và Nguyễn Mai thân mến!
Kusinàra (Pàli), Hán ngữ phiên âm Câu Thi La, Câu Thi Na Kiệt, Câu Thi thành… thuộc nước Mạt La (Mallà), Trung Ấn, nơi Phật nhập diệt dưới cội cây sa la là một trong Tứ động tâm, Thánh địa của Phật giáo. Kinh Đại Bát Niết Bàn (Trường Bô I), Phật dạy: “Đây là chỗ Như Lai diệt độ, nhập Vô dư y Niết bàn, này Ananda, đó là Thánh tích, người thiện tín cần chiêm ngưỡng và tôn kính”.

Chúng ta đều biết, từ khi tuyên bố sau ba tháng nữa sẽ nhập Niết bàn tại đền Càpàla, xứ Vesàli, Phật phải di chuyển thêm một lộ trình khá dài mới đến Kusinàra. Nhất là sau khi thọ thực tại nhà thí chủ Cunda (Thuần Đà) ở Pàvà, Đức Phật bị bệnh khá nặng nhưng Ngài vẫn kiên quyết đi bộ, vượt sông đến rừng sa la, xứ Kusinàra. Đoạn đường này, kinh sách ghi lại khoảng 3 do tuần (chừng 9km) nhưng Đức Phật phải dừng nghỉ đến 25 lần vì bệnh và mệt (Narada, Đức Phật và Phật pháp, Phạm Kim Khánh dịch).

Như vậy, đến Kusinàra để nhập diệt là mục đích của Phật. Ngay cả Tôn giả Ananda cũng ngạc nhiên, thắc mắc về việc này: “Bạch Thế Tôn, Thế Tôn chớ có diệt độ tại đô thị nhỏ bé, hoang vu và phụ thuộc này. Bạch Thế Tôn, có những đô thị khác to lớn hơn như Campà (Chiêm Bà), Ràjagaha (Vương Xá), Sàvatthi (Xá Vệ)…, Thế Tôn hãy diệt độ tại những chỗ ấy”. Cũng nhờ sự thắc mắc này, Thế Tôn giải thích rằng, sở dĩ chọn Kusinàra để diệt độ vì đây là nơi Ngài đã xả bỏ thân mạng trong quá khứ. “Ta đã từng sáu lần làm Chuyển luân Thánh vương và bỏ xác tại đây, nay Ta thành Vô thượng Chánh giác lại cũng muốn bỏ xác tại đây” (Kinh Du Hành, Trường A Hàm I; Kinh Đại Thiện Kiến Vương, Trung A Hàm II). Theo ngài Narada, “Đức Phật chọn Kusinàra để nhập diệt vì ba lý do. Lý do đầu tiên là để thuyết bài pháp Mahàsudasana Sutta nhằm khuyến khích đời sống đạo hạnh. Thứ nhì là để dẫn dắt Subhadda, người đệ tử cuối cùng của Ngài, vì ngoài Đức Phật ra không ai có thể cảm hóa vị này được. Thứ ba là để cho vị Bà la môn Dona có thể phân chia Xá lợi của Ngài một cách êm thắm giữa những người sùng mộ Ngài” (Đức Phật và Phật pháp, tr.225).

Kinh Đại Bát Niết Bàn ghi, khi đến Kusinàra, vào trong rừng sa la, Ngài nằm đầu hướng về phương Bắc, giữa hai cây sa la song thọ. Lúc bấy giờ, sa la song thọ nở hoa trái mùa, tràn đầy cành lá. Những đóa hoa này rơi xuống, tung vãi trên thân Như Lai để cúng dường Ngài.

Sa la (Sàla-Pàli), Hán phiên âm Sa la, Ta la, Tát la thọ, tên khoa học Shorea robusta. Loài cây này có đặc điểm thường mọc thành hai nhánh lớn đều nhau, nhìn từ xa giống như hai cây nên gọi là song thọ.

Theo kinh Đại Bổn Duyên, Trường A Hàm I, cội sa la là Đạo tràng chứng đắc Vô thượng giác của Đức Phật Tỳ Xá Bà. Kinh điển cũng ghi rằng, khu rừng sa la nơi Thế Tôn nhập diệt vì đau thương sầu thảm, khô héo và mang màu trắng như chim hạc, nên còn gọi là Hạc lâm. Đặc biệt là bốn cây sa la song thọ gần nơi sàng tọa của Phật nằm lúc nhập diệt, mỗi cây chỉ có một nhánh khô héo, chuyển sang màu trắng, cành lá hoa quả đều rơi rụng nhưng nhánh kia vẫn xanh tốt. Bốn cây này được gọi là tứ khô tứ vinh thọ (bốn cây, mỗi cây có một nhánh sống và một nhánh chết). Song thọ ở phương Đông tượng trưng cho Thường và Vô thường; song thọ ở phương Tây tượng trưng cho Ngã và Vô ngã; song thọ ở phương Nam tượng trưng cho Lạc và Bất lạc; song thọ ở phương Bắc tượng trưng cho Tịnh và Bất tịnh (Đại Niết Bàn kinh sớ, quyển 1). Chính hình ảnh của bốn cây sa la “không phải sống mà cũng không phải chết” này đã nói lên sự thị hiện Niết bàn “sanh nhi bất sanh, diệt nhi bất diệt” của Thế Tôn. Niết bàn là vô sanh, bất diệt giữa muôn trùng sanh diệt. Bốn nhánh sa la còn xanh tốt trong màu trắng tang thương của Hạc lâm biểu trưng cho bốn đức Niết bàn. Chính giữa vô thường biến chuyển mới làm sáng tỏ cái chân thường, vạn pháp không đối lập mà dung nhiếp; tuy hai mà một, tuy một mà hai. Vì vậy mà Thế Tôn đã chọn rừng sa la làm nơi nhập diệt.

Như vậy, sa la là cây thiêng (linh thọ) trong Phật giáo, giống như cây bồ đề. Lúc ngài Huyền Trang đến Kusinàra chiêm bái, rừng sa la chỉ còn bốn cây, hiện nay còn hai cây là những chứng tích thiêng liêng. Do đó, trồng cây sa la để ngưỡng vọng Thế Tôn, hướng về Thánh tích, thú hướng Niết bàn là chuyện nên làm. Quan niệm sa la là cây “diệt pháp” và không nên trồng là hoàn toàn thiển cận và sai lạc.

Chúc các bạn tinh tấn!

Nguồn: Ðức Phật Dược Sư

Bài tựa:Kết Một Tràng Hoa

Viết về Kinh Pháp Cú Hán tạng
Tác giả : Thích Nhất Hạnh

Ở Ấn Độ, ngày xưa cũng như ngày nay, và ở nhiều nước khác nữa, có tục đi mua những tràng hoa kết sẵn để dâng cúng hay để hiến tặng.

Chúng ta hãy hình dung một người kết tràng hoa và bán tràng hoa chuyên nghiệp. Người ấy đi hái nhiều thứ hoa, đem về, để riêng từng loại hoa trước mặt. Người ấy nâng một vài đóa hoa hay chùm hoa lên, ví dụ hoa nhài, rũ một cái, cho những cánh hoa này lộ ra tất cả cái tươi đẹp còn lại của chúng, trước khi xâu kết thành một tràng hoa. Công việc của người biên tập kinh Pháp Cú cũng giống như công việc của người chuyên môn xâu kết tràng hoa. Trước hết người ấy phải đi hái hoa, nghĩa là đọc hết các kinh điển, và chọn ra những ý kinh, những bài kệ mang tính chất cốt tủy của Phật pháp. Rồi người ấy tập hợp các bài kệ này dưới những chủ đề khác nhau, cũng như hoa nhài để riêng, hoa huệ để riêng, hoa vạn thọ để riêng. Người ấy bỏ những bài kệ mà nghĩa lý còn mù mờ, chỉ chọn những bài kệ nghĩa lý thật sáng tỏ, cũng như cầm hoa mà rũ, làm rơi rụng những cánh hoa không còn tươi thắm, để chỉ còn những đóa hoa thật tươi, trước khi xâu kết thành tràng hoa….(xem thêm)

Source: hoavouu

Chuyển đến trang:  1  2  3  4  5  6  7  8 9  10 10a 10b 11 12 13 14 15 16 17 18 18a