HT Thích Thanh Từ
Giác ngộ đó chỉ có nghĩa là bỏ cái xấu, cái dở để trở thành người tốt thôi. Nếu hiểu đạo Phật theo nghĩa giác ngộ như vậy thì đánh giá quá thấp đạo Phật, làm mất giá trị siêu thoát của đạo Phật. Bởi vậy trong nhà Phật để nguyên từ Phật.
.
Chúng ta học Phật, tu Phật là tu theo đạo giác ngộ. Mà đạo giác ngộ dĩ nhiên trí tuệ là căn bản không thể nào thiếu được. Người tu theo Phật dù xuất gia hay tại gia cũng phải mở sáng con mắt trí tuệ. Chúng ta hãy xét lại xem từ ngày phát tâm tu theo Phật đến giờ đã mở sáng trí tuệ được nhiều hay ít?
Có người khi nghe đến trí tuệ dường như sợ nên thường xưng Ngu tăng hay Phàm tăng như để nói lên sự khiêm nhường, họ ít nói đến sự giác ngộ. Mà chưa giác ngộ thì chưa phải tu theo đạo Phật. Ở đây, tôi không nói đến giác ngộ mà chỉ nói trí tuệ. Bởi vì trí tuệ mở màn cho giác ngộ cứu kính.
Chúng ta nhớ lời Phật dạy, người tu phải tự giác và giác tha. Tự giác là mở sáng trí tuệ của mình. Giác tha là đem trí tuệ đó đánh thức, cảnh tỉnh mọi người cùng giác ngộ. Tự giác là việc của mình. Giác tha là giúp cho người. Giúp cho người là lòng từ bi. Cho nên có giác ngộ rồi mới có từ bi. Chưa giác ngộ mà nói đến từ bi, chỉ là từ bi gượng thôi.
Nếu một vị Tăng đã thấy bổn phận mình phải truyền bá chánh pháp, phải thực hành hạnh từ bi mà không chịu tu, không thức tỉnh, không chịu giác ngộ thì chẳng biết vị ấy sẽ thực hành hạnh từ bi bằng cách nào? Chẳng lẽ chúng ta đi đắp đất, cuốc đường hay hốt rác cho thiên hạ. Từ bi như vậy người phàm tục cũng làm được mà. Vậy từ bi trong đạo Phật là thế nào? Tôi sẽ nói rõ hơn vấn đề này ở phần sau.
Văn tuệ là như thế nào?
Chúng ta đến với đạo, tự mình làm sao giác được. Nên phải nhờ những người đi trước như bậc thầy, các hàng Tôn túc đã tu, đã học, đã mở được đôi phần trí tuệ hướng dẫn, chỉ dạy cho chúng ta từ từ mở con mắt trí tuệ. Nhờ lắng nghe những lời chỉ dẫn, giảng dạy ấy mà chúng ta mở được con mắt trí tuệ của mình là Văn tuệ.
Người tu cất thất ở riêng, không học hành gì hết chắc chắn sẽ không có Văn tuệ. Không có Văn tuệ mà tu thì chỉ là tu mù. Những người tu này khi chỉ dạy cho kẻ khác thì cũng chỉ dạy một cách mù quáng mà thôi. Trong kinh Phật nói: “Một người mù dẫn một đám mù, người mù đi trước sụp hầm, những kẻ mù theo sau cũng té xuống hầm luôn.” Người học Phật mà thiếu Văn tuệ không thể được.
Trong kinh A-hàm Phật dạy: Người cư sĩ đến chùa đầu tiên phải gặp Tăng Ni. Gặp Tăng Ni để thưa hỏi Phật pháp chớ không phải để cúng cầu an cầu siêu, như vậy là Văn tuệ. Sau khi nghe chư Tăng Ni dạy Phật pháp rồi phải suy gẫm lời thầy dạy có đúng với kinh Phật không, có đúng với lẽ thật chân lý không? Nếu đúng mới tin, còn dạy sai dạy lầm thì không tin.
Cho nên Tư tuệ hết sức thiết yếu. Sau khi suy tư nghiệm thấy đúng kinh Phật, đúng chân lý rồi mới tu. Phật dạy cư sĩ còn như vậy huống là tu sĩ xuất gia mà lại thiếu Văn, Tư, Tu. Thế mà có nhiều tu sĩ cứ tự tu không cần học với ai cả thì thật sự hết sức sai lầm.
Tư tuệ là như thế nào?
Tu tuệ là như thế nào?
Tư chí lý rồi đến tu rất dễ, không còn nghi ngờ gì nữa. Nhờ nghe hiểu, suy gẫm và biết cách ứng dụng những pháp mình đã học được vào đời sống tu hành, thấy có lợi ích. Đây chính là Tu tuệ. Ba vấn đề Văn, Tư, Tu đều là trí tuệ. Trí tuệ từ thầy ban cho, trí tuệ do mình suy gẫm, trí tuệ do mình cố gắng thực hành, cho nên ba Tuệ học ấy không thể thiếu được.
Nhà Phật nói trí tuệ có hai phần: Một là Hữu sư trí, tức trí học nơi thầy như Văn Tư Tu. Hai là Vô sư trí, tức trí sẵn có của mình, không do học. Đó là Tam vô lậu học, tức ba môn học giải thoát Giới, Định, Tuệ. Giới là đức hạnh, Định là thiền định, Tuệ là trí tuệ. Nhờ giữ được giới nên thiền định không bị xao xuyến. Vì vậy giới trước rồi định sau. Nhờ thiền định nên Trí vô sư phát sanh là tuệ.
Tại sao thiền định được Trí vô sư? Khi thiền không nghĩ gì cả nên được định, được định nên trí sáng giác ngộ, đó là trí không thầy. Trong kinh có kể lại: Đức Phật sau khi thành Phật rồi, Ngài tuyên bố ta học đạo không thầy. Bởi vì bốn mươi chín ngày đêm ngồi dưới cội bồ-đề Ngài không học với ai cả, mà nhờ định nên được giác ngộ. Vì vậy nói Ngài học đạo không có thầy.
Phật giác ngộ viên mãn Trí vô sư, ngày nay chúng ta tu muốn giải thoát sanh tử cũng phải đi tới Trí vô sư đó, nên nói Giới, Định, Tuệ là ba pháp môn tu được giải thoát. Chữ Vô lậu là không còn rơi, không còn rớt lại Tam giới nên gọi là giải thoát sanh tử. Như vậy người học Phật phải đủ trí tuệ, từ Hữu sư trí rồi tiến tới Vô sư trí. Hữu sư trí là nhờ học, Vô sư trí là nhờ tu. Đó là hai phần hết sức rõ ràng.
.
Điều hệ trọng thứ hai là từ bi. Bởi vì chúng ta không có quyền nghĩ mình tu để hưởng an lạc một mình. Tại sao? Đức Phật ngày xưa chủ trương đi khất thực là vì sao? Khất thực tức là gieo duyên với chúng sanh. Tôi nói là lãnh nợ của chúng sanh.
Nếu chúng ta tu mà đối với mọi người không có liên hệ, không trao qua đổi lại thì không có gì dính dáng. Mà không có dính dáng thì giáo hóa họ không được, nên Phật dạy tu sĩ phải nhận của đàn-na thí chủ cúng dường.
Có những thí chủ rất nghèo cúng dường nhưng chúng ta cũng phải nhận. Nhận để chi? Để người đó gởi mình, mình nhận nợ. Nên từ gieo duyên là nói cho đẹp, thật ra chúng ta nhận nợ. Có nợ thì mới gặp lại để đền trả.
Trong nhà Phật dạy chúng ta có Ngũ thừa là: Nhân thừa, Thiên thừa, Thanh văn thừa, Duyên giác thừa và Bồ-tát thừa. Nhân thừa là sanh trở lại làm người, Phật dạy tu giữ năm giới. Năm giới nếu giữ toàn vẹn bảo đảm người đó đời này làm người, đời sau chết trở lại làm người. Tu Thập thiện, sau khi mạng chung sanh lên cõi trời.
.
Đến đất, nước khi chết thân này nứt nẻ nước tuôn ra, rồi tới đất rã. Nước theo mạch chảy đi khắp nơi cũng không mất, đất cũng trả về đất không mất. Như vậy tứ đại mất đi chỉ mất cái giả tướng duyên hợp, chớ bản chất nó đâu có mất.
.
2- Tinh thần: Tứ đại không mất thì tinh thần có mất được không? Tinh thần đi theo nghiệp duyên của nó. Ví dụ nước từ thể lỏng đổ vào trong nồi nấu, nước sôi bốc hơi rồi cạn. Nước cạn người ta nói hết nước, nhưng thật ra nước bốc thành hơi bay lên, gặp lạnh đọng lại thành nước rơi trở xuống.
Chúng ta khi ra đời còn trẻ, đáng lẽ ham danh lợi tài sắc ở thế gian, nhưng tại sao lại ham tu? Như vậy do trong nghiệp từ quá khứ của chúng ta còn lưu lại. Như tôi khi chưa đi tu, mỗi lần qua chùa nghe tiếng chuông, thấy xôn xao trong lòng quá. Cái gì làm cho mình bất an, nếu không phải là chủng tử trước kia?
Mỗi khi chúng ta ra đời, nghiệp từ quá khứ còn lưu lại trong con người hiện tại chớ không phải mất. Nếu chúng ta nhìn vào một lớp học thì biết rõ sự sai biệt, người giỏi về văn, người giỏi về toán v.v… Thầy cô dạy như nhau nhưng điểm riêng biệt của mỗi học trò lại khác. Điểm đó ở đâu ra? Chẳng qua chủng tử từ quá khứ còn lưu lại nơi mỗi người, nên không ai giống ai.
Ví dụ chú đạp xích lô có một vợ hai con, mỗi ngày chạy xe kiếm được hai ba chục ngàn nuôi vợ nuôi con. Nhưng nếu chiều vô quán nhậu hết thì vợ con đói khổ. Người hàng xóm thấy thương, đem ít lít gạo lại cho, đó là bố thí tài. Rồi mai chú đạp xe có tiền cũng nhậu hết như vậy thì sao, cho đến chừng nào mới đủ, chừng nào gia đình mới ấm no.
Bây giờ có một thầy, một cô nào đó sáng suốt tới khuyên chú, nói với chú uống rượu có hại gì, bệnh hoạn ra sao, rồi vì uống rượu mà không đủ tiền nuôi vợ con, làm vợ con đói khổ.
Chú nghe hiểu, thức tỉnh bỏ rượu. Như vậy chúng ta chỉ nói chuyện một giờ, nửa giờ mà chú thức tỉnh bỏ rượu. Từ đó làm được bao nhiêu tiền chú đem về nuôi vợ con. Như vậy bố thí pháp không có cạn hết. Chỉ dùng lời nói, lý lẽ chân thật khuyên chỉ người, khi người tỉnh ngộ rồi gia đình hết khổ. Còn nếu cho tiền cho cơm hằng ngày, thì họ chỉ hết khổ tạm rồi mai mốt sẽ khổ nữa. Như vậy cái nào hơn?
.
Có kẻ cho rằng người tu Phật tiêu cực quá, nhất là Tăng Ni không chịu làm phước, làm việc xã hội, cứ đi nói pháp hoài. Những người tích cực làm việc này, việc kia giúp cho đồng bào rất dễ thấy, còn người nói pháp xem như không có lợi ích gì. Nhưng thật tình việc này lợi rất lớn. Nên trong hai thứ bố thí: bố thí tài và bố thí pháp thì bố thí pháp là hơn.
Bố thí pháp là đem lòng từ bi của mình chỉ dạy nhắc nhở mọi người biết tu, chỉ dạy nhiều chừng nào tốt chừng ấy. Giả sử tôi có mười ngàn đồng muốn đem bố thí, nếu tôi cho mỗi người một ngàn đồng, thì cho mười người là hết. Còn tôi bố thí pháp thì có một trăm người, tôi cũng bố thí trọn đủ hết. Vậy bố thí pháp là bất tận.
Chúng ta học đạo phải học cái bất tận, còn những việc có chừng mực, có giới hạn chúng ta làm một phần nhỏ thôi, gốc là phải bố thí pháp. Muốn bố thí pháp, chúng ta phải có học có tu và có lòng từ bi. Vì vậy từ bi sau trí tuệ. Hai việc đó không tách rời nhau.
.
Bố thí vô úy là sao? Vô úy là không sợ. Chúng ta mang tới cho người niềm an ổn không sợ hãi. Không sợ này có nhiều thứ: Sợ ma, sợ rắn, sợ cọp… đủ thứ sợ.
Thí dụ đối với người sợ ma, chúng ta muốn cho họ khỏi sợ, phải giải thích cho họ hiểu ma không đáng sợ. Phật dạy trong lục đạo luân hồi: địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, người, a-tu-la, trời, thì ngạ quỉ là loại quỉ đói đứng thứ hai, người cao hơn ngạ quỉ hai cấp. Mình cao hơn nó mà lại sợ nó thì vô lý quá. Chẳng lẽ ông Tỉnh trưởng lại sợ người dân, người lại sợ ma thì thật ngu khờ. Giải thích cho người biết và hết sợ đó là bố thí vô úy.
.
Như có người sợ chết, chúng ta phải giảng giải cho họ hiểu chết là một lẽ đương nhiên thôi, ai rồi cũng phải chết. Phật chết, Bồ-tát chết, chư Thánh tăng chết, Phàm tăng, Phàm ni chết, cư sĩ chết. Đó là chuyện thường, phải chi có người không chết thì mình sợ, ai cũng chết hết thì có chi mà sợ. Giải thích có căn bản cho người ta hiểu, hiểu rồi thì không sợ. Đó là bố thí vô úy. Như vậy, bố thí pháp trùm cả bố thí chánh pháp và bố thí vô úy luôn.
Văn-thù tượng trưng cho Căn bản trí. Ngài ngồi trên lưng sư tử để biểu trưng rằng chỉ có trí tuệ mới hàng phục được ma quân, chỉ có trí tuệ mới giáo hóa được chúng sanh cang cường này. Đó là ý nghĩa hết sức thâm trầm. Song vì chúng sanh cõi này cứng đầu quá, dùng trí tuệ dạy họ, rồi ít bữa cũng trở lại y cũ, thì làm sao đây. Vì vậy phải có đại nguyện đại hạnh, cho nên bên trái của đức Phật vị
Bồ-tát phụ tá thứ hai là Phổ Hiền cỡi voi.
.
Do đó phải có lòng từ bi trước, lòng từ bi thật rộng lớn mới làm được việc đó. Mấy đứa nhỏ đem về dạy có dễ đâu. Nhiều khi nó muốn thoi lại mình nữa. Nó là dân bụi đời, mình thương muốn dạy dỗ nó, nhưng nó lại không biết gì, không mang ơn mà còn cự cãi với mình. Nếu không có ý chí vững bền sắt đá thì không thể nào làm được.
.
Cũng vậy Phật từ cõi tịnh đến, muốn độ chúng sanh cõi uế này phải có lòng từ bi, phải có ý chí mạnh mẽ mới độ được. Chúng ta muốn dùng tâm từ bi của mình để giáo hóa chúng sanh khó điều phục đó, thì phải có ý chí kiên cường như Bồ-tát Đại Thế Chí mới được.
HT. Thích Thanh Từ
CHỮ “KHÔNG” TRONG KINH BÁT NHÃ
H.T. Thích Thanh Từ
CÁC PHÁP DUYÊN SINH KHÔNG THẬT
Tác hữu trần sa hữu
Vi không nhất thiết không
Hữu không như thủy nguyệt
Vật trước hữu không không..
Không thì tất cả không.
Có không trăng đáy nước
Đừng mắc có không không.
Đã là giả có mà chúng ta thấy thật thì đó là mê lầm, giả có mà nói không thì trái với lẽ thật. Vì vậy không thể khẳng định là không. Phải biết muôn sự muôn vật trước mắt chúng ta là tướng duyên hợp giả có.
Tất cả lời Phật dạy không có câu nào, lời nào là vô ý vô nghĩa, tất cả đều chỉ lẽ thật cho chúng ta. Nhưng vì trình độ thấp nên chúng ta không nắm vững thành ra cứ mê muội mãi.
Thân ngũ uẩn này không thật tức là bệnh không thật. Thuốc là để trị bệnh, bệnh đã không thật thì thuốc làm gì có thật. Rõ ràng pháp của Phật dạy chỉ là phương tiện trị bệnh cho chúng sanh. Nếu chúng sanh hết bệnh thì thuốc cũng không dùng. Chúng sanh không thực thể thì thuốc cũng không thực thể.
Nhờ trí tuệ sáng không chấp nên đau khổ cũng không còn. Tụng một bài kinh Bát Nhã mà thấu triệt rồi thì chúng ta tự tại đi trong cuộc đời. Đó là điều chắc chắn vậy.
Người tu cũng vậy, phải có trí tuệ để thấy tường tận lẽ thật của cuộc đời và có lòng từ bi để san sớt, chia xẻ những nỗi khổ của chúng sanh. Đó mới là người tu Phật chân chính.
Trí tuệ trong Phật giáo
Hoang Phong
Nhà xuất bản Phương Đông 2010
TRÍ TUỆ TRONG PHẬT GIÁO– cuốn sách dày 312 trang, tập hợp một số bài viết và dịch của Hoang Phong trong đó có 6 bài viết và 6 bài dịch. Trí Tuệ Trong Phật Giáo chiếm một chỗ đứng đặc biệt trong cuốn sách.
CÁC BÀI VIẾT CỦA HOANG PHONG
Trí tuệ Phật giáo là một khái niệm rất quan trọng vì đó là cứu cánh của toàn thể việc tu tập, tuy nhiên khái niệm này lại thường hay bị lạm dụng và hiểu sai. Mục đích của bài viết này là cố gắng nêu lên một vài đặc tính khác biệt giữa Trí tuệ Phật giáo và trí thông minh thông thường, sau đó sẽ trình bày một số định nghĩa về Trí tuệ tìm thấy trong kinh sách nêu lên tính cách phức tạp của khái niệm này trên phương diện thuật ngữ và sau đó là các cách giải thích rất đa dạng tùy theo các tông phái và học phái. Trong phần kết luận sẽ xin đề nghị một thí dụ nhỏ về cách ứng dụng lý thuyết vào đời sống hằng ngày.
Trí tuệ trên phương diện thuật ngữ
Chữ”Trí tuệ” hay “Tuệ giác” thì tiếng Phạn gọi là Jnana (Xá-na), tiếng Pali là Nana, tiếng Tây tạng là Yé shes. Chữ Jnana trong tiếng Phạn có nghĩa là “sự hiểu biết”, chữ Yé shes trong tiếng Tây tạng có nghĩa là “sự hiểu biết chủ yếu”. Các ngôn ngữ Tây phương dịch chữ Jnana là Sagesse (tiếng Pháp) hoặc Wisdom (tiếng Anh). Cụ Đoàn Trung Còn trong quyển Phật Học Từ điển có đề nghị dịch chữ Trí tuệ là “Science”. Dịch như thế có vẻ sát nghĩa hơn vì chữ science có gốc tiếng La tinh là scientia, chữ scientia do chữ scire mà ra, và chữ scire có nghĩa là “hiểu biết”. Nói chung thì chữ science (mà người ta thường dịch là khoa học) có nghĩa là một “hệ thống hiểu biết mạch lạc liên quan đến các sựkiện, các vật thể hay biến cố chịu chung một số quy luật nào đó mà người ta có thể kiểm chứng được bằng các phương pháp thực nghiệm“. Theo cách định nghĩa ấy thì chữ Science gần với ý nghĩa của chữ Trí tuệ hơn là các chữ Sagesse và Wisdom.
Trí tuệ còn gọi là Tuệ hay Trí huệ. Trí là quán thấy, huệ là hiểu rõ. Trên phương diện tổng quát Trí tuệ có nghĩa là sự hiểu biết minh bạch và tường tận, và nếu dựa theo cách định nghĩa như thế thì Trí tuệ cũng không khác với trí thông minh bao nhiêu. Tuy nhiên theo quan điểm Phật giáo thì Trí tuệ hoàn toàn khác với trí thông minh thông thường, sự khác biệt đó sẽ được trình bày chi tiết trong các phân đoạn dưới đây. Theo quan điểm của Phật giáo thì Trí tuệ có nhiều cầp bậc từ thấp đến cao, và trong một cấp bậc nào đó có thể tạm gọi là cao nhất của sự hiểu biết thì Trí tuệ còn được gọi là Bát nhã (tiếng phạn là Prajna, tiếng Pali là Panna, tiếng Tây tạng là Shes rab). Đối với chữ Bát nhã thì người Tây phương không dịch nữa mà giữ nguyên gốc tiếng Phạn là Prajna.
Một vài đặc tính của trí thông minh
Như chúng ta đã thấy trong phần trình bày trên đây thì ngôn từ hay thuật ngữ chỉ là những quy ước giúp vào việc trao đổi sự hiểu biết giữa con người với nhau. Sự hiểu biết hay khả năng cảm nhận và diễn đạt của mỗi cá thể con người trước những hiện tượng thuộc môi trường chung quanh được gọi là “trí thông minh”, và tất cả mọi người đều có cái trí thông minh như thế. Tuy nhiên vì trí thông minh phát sinh từ kinh nghiệm cảm nhận của ngũ giác đối với ngoại cảnh và lệ thuộc vào các điều kiện giáo dục cho nên trí thông minh rất khác biệt nhau giữa các cá thể con người. Đối với Phật giáo thì sự khác biệt ấy còn bắt nguồn sâu xa hơn nữa vì trí thông minh không những chỉ phát sinh từ kinh nghiệm cảm nhận của ngũ giác và sự diễn đạt của tri thức như người ta thường hiểu mà còn thừa hưởng những gì thật sâu xa trong quá khứ tức là nghiệp. Nghiệp tác động trực tiếp đến sự vận hành của tri thức nơi mỗi cá thể và tạo ra sự khác biệt và đa dạng của trí thông minh giữa các cá thể với nhau.
Đếnđây cũng xin phép được trở lại vấn đề thuật ngữ. Trí tuệ trong tiếng Phạn gọi là Jnana, tiếng Hy lạp cổ mượn vần jna của tiếng Phạn jnana để tạo ra chữ gno, chữ gno lại biến thành “gnose” trong tiếng Pháp và “gnosis” trong tiếng Anh. Các chữ gno, gnose hay gnosis đều có nghĩa là “sự hiểu biết”. Tóm lại sự hiểu biết hay trí thông minh nói chung là sự cảm nhận và cách diễn đạt đặc thù của con người trước những hiện tượng xảy ra chung quanh và những ảo giác và xúc cảm phát sinh trong tâm thức. Sở dĩ gọi là đặc thù vì trí thông minh đó không giống với trí “thông minh” của súc vật. Hãy lấy một thí dụ, trong mùa thu vừa qua khi tôi đang cuốc đất trong vườn thì có một người Pháp lớn tuổi đi ngang và bảo rằng khi nào tôi thấy những con trùn (giun đất) chui xuống những lớp đất thật sâu thì mùa đông sắp tới sẽ rất lạnh. Khoa học không hoặc chưa chứng minh được những sự kiện như thế (?), tuy nhiên nếuđấy là một sự thực thì ngay cả loài côn trùng cũng có một thứ thông minh nào đó.
Trí thông minh của con người có phần khác hơn. Thay vì sử dụng trí thông minh của mình để hội nhập với thiên nhiên (chẳng hạn như trường hợp của con giun đất) thì con người lại dùng nó để để tác tạo ra một “cái tôi” cho mỗi cá thể để tự tách rời mình ra khỏi môi sinh. Kết quả là mỗi cá thể tự tạo ra một thế giới riêng cho mình và đặt cái tôi của mình vào vị trí trung tâm. Đấng sáng tạo cũng chỉ xoay quanh cái tôi ấy, dù cho vị trí của Vị ấy được đưa lên mây xanh cũng thế thôi. Ngoài sự sáng tạo ra một thế giới riêng trong tâm thức để tạo ra mọi thứ xúc cảm bấn loạn, từ sơ hãi, hận thù cho đến yêu thương và bám víu, thì con người còn sử dụng trí thông minh của mình để hủy hoại thiên nhiên và chế tạo khí giới có sức tàn phá lớn lao. Chỉ có con người mới giết hại đồng loại hàng loạt, các cuộc chiến diệt chủng không bao giờ chấm dứt trong lịch sử nhân loại. Con người cũng rất khôn ngoan, nghĩra mọi thứ mưu mộ và kỹ thuật thật tinh vi để áp đặt quan điểm của mình hay để lường gạt lẫn nhau nhân danh những lợi ích “tập thể” hay chỉ vì những tham vọng cá nhân.
Trong một lãnh vực nhỏ hẹp hơn thì con người cũng biết sử dụng trí thông minh để sáng chế ra các phương pháp xử tử”nhân đạo” nhất. Trong cuộc sống hằng ngày con người cũng nhờ vào trí thông minh để tìm ra mọi cách nhục mạ và đối xử tàn tệ với nhau. Trí thông minh quả thật đã giúp cho con người trên một khía cạnh nào đó tạo ra một thế giới kinh hoàng đầy lo âu và sợ sệt. Tóm lại sức sáng tạo của trí thông minh xuyên qua cái tôi hay cái ngã là nguồn gốc trực tiếp hay gián tiếp mạng lại đủ mọi thứ khổ đau, con người không hề ý thức được điều này mà còn xem trí thông minh là một niềm hãnh diện nữa. Trí thông minh theo ý nghĩa vừa được mô tả không phải là Trí tuệ theo quan điểm Phật giáo.
Trí thông minh như đã được trình bày trên đây trực tiếp thừa hưởng những gì do nghiệp mang lại, tuy nhiên không hẳn chỉ có những nghiệp xấu như vừa được trình bày trên đây, mà còn có những thứ nghiệp lành giúp cho con người biết yêu thương nhau, tạo ra trong lòng mình những xúc cảm của từ bi, hiển hiện ra trên thân xác bằng những ngôn từ khả ái và những cử chỉ nhân từ để an ủi và giúp đỡ đồng loại đang lâm vào cảnh khổ đau và khốn cùng. Có những thứ nghiệp là những hạt giống nở ra những cánh hoa của lòng nhân ái và sự sáng suốt hướng chúng ta vào những gì cao cả hơn hầu mang lại một ý nghĩa nào đó cho sự sống này và gieo những hạt giống mới cho tương lai. Trí thông minh đó sẽ mang chúng ta ngày càng gần hơn với Trí tuệ. Vậy Trí tuệ là gì?
Trí tuệ Phật giáo có phải là một cách xử thế hay không
Xin xem tiếp : 01. Trí tuệ trong Phật giáo .
Mục lục:
- Phần I: Các bài viết của Hoang Phong
- Phần II: Các bài dịch của Hoang Phong
Vài nét về Tác Giả: (trích trong Thư Viện Hoa Sen)
Nguyễn Đức Tiến
Bút hiệu: Hoang Phong
Sinh năm: 1939
Vềhưu năm: 1999
Hội viên Hội Thiền Học Quốc tế AZI (Association Zen Internationale)
Cựu Giảng sư Đại học Khoa Học Saigon
Cựu Địa chất gia và Kỹ sư tầm khỏa công ty dầu khí TOTAL
Tiến sĩ Khoa học
Hiện đang sống tại Pháp Quốc
Source: thuvienhoasen & hoavouu.
NHỮNG NGƯỜI NỔI TIẾNG CA NGỢI ĐẠO PHẬT
Famous people praise Buddhism
Tuệ Uyển chuyển ngữ ngày 22/4/2012
Philip Kotler (1931- )
“Sự tiếp cận của tôi được ảnh hưởng bởi Thiền. Thiền nhấn mạnh việc học hỏi bằng những phương tiện của tĩnh lự và tuệ quán trực tiếp, trực giác. Những tư tưởng trong quyển sách này là kết quả của những sự hành thiền của tôi trên những nhận thức và nguyên tắc nền tảng của thị trường.
(Tuệ Quán Thị Trường từ A đến Z)
“My approach is influenced by Zen. Zen emphasizes learning by means of meditation and direct, intuitive insights. The thoughts in this book are a result of my meditations on these fundamental marketing concepts and principles.”
(Marketing Insights from A to Z).
Ronald Wilson Reagan (1911-2004)
“Một điều mà Đạo Phật dạy chúng ta là mỗi thời khắc là một cơ hội để thay đổi.”
“One thing that Buddhism teaches you is that every moment is an opportunity to change. ”
Albert Einstein (1879-1955)
“Nếu có một tôn giáo có thể đối diện với những nhu cầu của khoa học hiện đại đấy sẽ là Đạo Phật.”
“If there is any religion that could cope with modern scientific needs it would be Buddhism.”
Henry David Thoreau
(July 12, 1817 – May 6, 1862)
“Một dấu chân đơn lẻ sẽ không làm nên lối mòn trên mặt đất, thế nên một tư tưởng đơn lẻ sẽ không làm nên một dấu vết trong tâm. Để làm nên một lối mòn vật lý sâu sắc, chúng ta phải đi tới đi lui hết lần này đến lần khác. Để làm nên một dấu vết tinh thần sâu sắc, chúng ta phải suy đi nghĩ lại nhiều lần về loại tư tưởng mà chúng ta mong ước chiếm ưu thế trong đời sống chúng ta”.
“As a single footstep will not make a path on the earth, so a single thought will not make a pathway in the mind. To make a deep physical path, we walk again and again. To make a deep mental path, we must think over and over the kind of thoughts we wish to dominate our lives.”
Albert Einstein
(14 March 1879 – 18 April 1955)
“Con người là một bộ phận của một tổng thể, được chúng ta gọi là Vũ trụ, một phần tử giới hạn trong thời gian và không gian. Con người tự kinh nghiệm, cảm giác và tư tưởng của con người, như điều gì đấy riêng biệt với tất cả,một loại vọng tưởng của tâm thức. Vọng tưởng này là một loại ngục tù cho chúng ta, giới hạn chúng ta với những tham dục cá nhân và ảnh hưởng những người gần gũi nhất. Nhiệm vụ của chúng ta là phải giải thoát chúng ta khỏi ngục tù này bằng việc mở rộng chu vi từ bi để bao gồm tất cả mọi tạo vật và tổng thể tự nhiên trong sự xinh đẹp của nó”.
“A human being is part of w whole, called by us the Universe, a part limited in time and space. He experiences hiimself, his thoughts and feelings, as something separated from the rest, a kind of optical delusion of his consciousness. This delusion is a kind of prison for us, restricting us to our personal desires and to affecion for a few persons nearest us. Our task must b e to free ourselves from this prison by wedening our cricles of compassion to embrace all living creatures and the whole of nature in its beauty.”
Albert Einstein, 1921
Daniel Pink
“Đạo Phật và khoa học rất tương đồng,”….”bởi vì cả hai đang khám phá bản chất của thực tại, và cả hai có mục tiêu làm giảm thiểu khổ đau của nhân loại.”
(Một Tâm Thức Hoàn Toàn Mới)
“Science and Buddhism are very similar,”… “because they are exploring the nature of reality, and both have the goal to lessen the suffering of mankind.”
(A WHOLE NEW MIND).
Alan Wilson Watts
(1915-1973)
“Đức Phật là một nhà tâm lý học vô cùng thiện xảo, và trong một cách nào đấy, Ngài là một nhà tâm lý trị liệu đầu tiên trong lịch sử, một bậc hiền nhân thấu hiểu kỳ diệu những mưu chước và tính không thành thật của tâm thức con người.”
(Những Triết Lý Á châu)
“The Buddha was a very skillful psychologist, and he is in a way the first psychotherapist in history, a man of tremendous understanding of the wiles and the deviousness of the human mind.”
(The Philosophies of Asia)
Leo Nikolayevitch Tolstoy
(1828-1910)
“Đối với đời sống trong tâm thức của nổi khổ không tránh khỏi, của việc trở nên bị kiệt quệ, của tuổi già, và của chết chóc, là không thể cam chịu được – chúng ta phải tự do khỏi cuộc đời, khỏi tất cả những cuộc sống có thể,” Đức Phật nói thế. Và những gì tâm thức mạnh mẽ này nói đã được nói và suy tư và cảm nhận bởi hành triệu trên hàng triệu người giống như họ. Và tôi đã nghĩ và cảm nhận điều ấy
(Lời Sám Hối)
“To life in the consciousness of the inevitability of suffering, of becoming enfeebled, of old age and of death, is impossible – we must free ourselves from life, from all possible life,” says Buddha. And what these strong minds said has been said and thought and felt by millions upon millions of people like them. And I have thought it and felt it.
(A CONFESSION)
Sir Arthur Charles Clarke
(1917-2008)
“Trong những niềm tin đã hiện hữu trước khi có sự ra đời của những Đấng Tối Cao, chỉ một hình thức Đạo Phật thuần khiết- có lẻ là một tôn giáo chân thật nhất – vẫn tồn tại.”
(Sự Kết Thúc của Tuổi Thơ)
Đạo Phật Sẽ Lan Truyền đến Phương Tây
“Of the faiths that had existed before the coming of the Overlords, only a form of purified Buddhism-perhaps the most austere of all religions-still survived.”
(Childhood’s End)
Buddhism will spread to the West.
Arnold J Toynbee
(1889-1975)
“Việc Đạo Phật đến phương Tây có thể chứng minh rõ ràng là sự kiện quan trọng nhất của thế kỷ hai mươi.”
“The coming of Buddhism to the West may well prove to be the most important event of the Twentieth Century.”
Richard J. Davidson, Ph.D., Lab Director
(born December 12, 1951)
Vào năm 2050…
* Việc luyện tập tinh thần sẽ được chấp nhận và thực hành trong cùng cách như việc luyện tập thân thể hiện nay.
* Chúng ta sẽ có một môn khoa học về những phẩm chất đạo đức.
* Chúng ta sẽ kết hợp chặc chẽ tâm thức trở lại với thuốc men và thấu hiểu tốt đẹp hơn về vấn đề não bộ có thể điều chỉnh sinh học ngoại biên trong những cung cách tác động đến sức khỏe. Điều này sẽ hướng chúng ta đến việc chịu trách nhiệm hơn cho sức khỏe của chúng ta.
* Chúng ta sẽ phát triển một sự tiếp cận thế tục để cung ứng những phương pháp và những sự thực hành từ các truyền thống quán chiếu để:
— Dạy giáo viên và trẻ em những cách để điều chỉnh cảm xúc tốt đẹp hơn và sự chú ý và trau dồi những phẩm chất như tử tế và từ bi.
— Thay đổi những sự trừng phạt vì thế sự tha thứ có thể được trau dồi trong những nạn nhân và sự điều chỉnh cảm xúc và sự giảm thiểu căng thẳng trong những người phạm lỗi.
— Gia tăng tỉnh thức về mối liên hệ hổ tương với những người khác và với hành tinh và thêm những người chịu trách nhiệm săn sóc môi trường quý giá của chúng ta.
— Thúc đẩy sự chấp nhận mở rộng hơn vào trong những tổ chức văn hóa quan trọng của chúng ta. Điều này sẽ giúp để khôi phục tính lịch sự, khiêm tốn, biết ơn và những đạo đức khác trong văn hóa của chúng ta.
Chuyển hóa tâm thức, thay đổi não bộ chúng ta
In 2050…
* Mental exercise will be accepted and practiced in the same way physical excercise is today.
* We will have a science of virtuous qualities
* We will incorporate the mind back into medicine and better understand how the brain can modulate peripheral biology biology in ways that affect health. This will lead us to take more responsibility for our own health
* We will develop a secular approach to provide methods and pracitces from contemplative traditions to:
— Teach teachers and chidren ways to better regulate emotions and attention and cutivate qua lities like kindness and compassion
— Transform corrections so that forgiveness can be cultivated in victims and emotion regulation and stess reduction in offenders.
— Increase awreness of our interdependence upon others and upon the planet and be more responsible caretakers of our precious environment
— Promote thrir more widespread adoption into the major institutions of our culture. This will help to restore civility, humility, gratitude and other virtues in our culture.
Transform Your Mind, Change Your Brain
Ẩn Tâm Lộ ngày 17/6/2012
http://rmvvision.wordpress.com/category/buddhism-in-the-eyes-of-intellectuals/
Source: thuvienhoasen.