Recent Pages: 1 1a 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 17b 17d 18
Hướng Dẫn Thiền Tập
Thầy Trí Chơn
Uploaded by Tu Viện Khánh An
Pháp thoại : Ánh Trăng Thiêng Liêng
Thầy Trí Chơn | Tết Trung Thu 2021
Uploaded by Tu Viện Khánh An
Bến Yêu Thương – ĐĐ. Thích Trí Chơn
Uploaded by DieuAmSanJose
Đi tìm mục đích của cuộc đời
Nhìn vào những thành tựu của khoa học kỹ thuật trong những thập niên gần đây, chúng ta có thể thấy là khoa học kỹ thuật có góp phần xây dựng cuộc sống vật chất của nhân loại. Dù các khoa học gia đã khám phá ra nhiều điều kỳ diệu phục vụ cho những nhu cầu của con người, nhưng họ cũng không thể thấu hiểu hoàn toàn cái mục đích chính của cuộc đời. Có một khoa học gia đã tự hỏi:
“Cuộc đời có mục đích chăng?
Thế thì mục đích của cuộc đời là gì?
Những gì? Ở đâu hay khi nào?…”
Triết lý là một môn học quan trọng và có nhiều ứng dụng, các triết gia nổi tiếng đã thảo luận và suy đoán về ý nghĩa của cuộc đời từ ngàn năm qua, nhưng cho đến ngày nay khi phải xác định mục đích của cuộc đời thì ngay cả đến các triết gia có tiếng tăm cũng chỉ phỏng đoán mà thôi . Tiến sĩ Hugh Moorhead, một giáo sư triết học của Northeastern Illinois University, đã có lần gởi đến 250 trí thức (triết gia, khoa học gia, nhà văn …) tên tuổi câu hỏi: “Ý nghĩa của đời sống là gì? “. Một số người đã trả lời với những lời phỏng đoán tốt đẹp, một số nhìn nhận là chỉ mới quyết định mục đích cho đời sống và một số khác ngay thẳng hơn với trả lời là họ không quan tâm.
Để trả lời cho những câu hỏi trên, chúng ta thử tham khảo Socrates (470-399, BC), một triết gia nổi tiếng của Hy Lạp xem sao? Nếu như triết học là một tinh thần độc lập, tự chủ, cuộc đời mỗi cá nhân là cái gì riêng biệt của họ và biệt lập với người khác thì Socrates là người đầu tiên trong lịch sử tư tưởng đã khẳng định về cá tính trên bình diện tinh thần.
“Hãy biết mình”:
Đây là câu châm ngôn thời danh được ghi trên cửa đền Delphes mà Socrates lấy làm hướng đi cho đời mình. Hãy biết mình chính là ý tưởng nền tảng lập trường nhân bản của Socrates và nó ảnh hưởng đến tất cả các tư tưởng nhân sinh quan sau này. Đây là một dấu ấn, một bước ngoặt trong lịch sử triết học. Khi Socrate nói: “tôi biết tôi không biết gì cả“. Đây không phải là sự khiêm tốn, cũng không phải sự đần độn mà chính là cái “biết” của con người khôn ngoan . “Biết” mình không biết gì cũng có nghĩa là biết tất cả, và chỉ còn lại cái biết là phải tìm hiểu học hỏi. Cái nguy hiểm làm cho người ta trở thành “dốt” chỉ vì người ta biết ít hoặc chẳng biết gì mà cứ tưởng là mình biết, vì thế, họ không chịu học hỏi, tìm kiếm.
Socrates quan niệm rằng theo lý trí tự nhiên “không có người nào cố ý hành động xấu cả“, mà trong con người đạo đức đã có sẵn. Điều này giống với tư tưởng của Khổng Tử “nhân tri sơ tính bản thiện“. Còn đối với xã hội, đạo đức là một khoa học, khoa học của cái thiện giúp con người tìm đến hạnh phúc, tìm đến sự khôn ngoan đích thực là chân, thiện, mỹ. Đạo đức trở thành khoa học để hoàn thành phẩm chất con người. Chính vì cái thiện đã tiềm ẩn trong con người nên phải trở về với con người để tìm chân lý.
Trở về với con người để thấy rằng lý trí hướng dẫn con người bằng những hành vi tốt đẹp. Để hiểu biết, con người cần phải học và bắt đầu từ không biết. Socrates đã trải qua nhiều kinh nghiệm suy tư để cuối cùng thốt lên một lời rất khiêm tốn “tôi biết, tôi không biết gì cả“. Đây chưa phải là một sự khẳng định hoàn toàn nghĩa đen đối với một triết gia nhưng điều ông muốn nói là mọi nhận thức của con người phải khởi đi từ đầu, từ sự không biết gì. Không biết để Socrates triển khai những bước đi vững vàng theo sự dẫn dắt của lý trí để đặt tới chân lý, đến với cái thiện phổ quát. Về mặt tri thức ông đã liệt kê và cho rằng thiên hạ có ba hạng người như sau:
-Hạng người dốt nát mà không biết mình dốt.
-Hạng người dốt mà biết mình dốt.
-Và hạng người biết mình biết.
Ông tự xếp mình vào hạng người thứ hai để biết mình và vươn lên. Thường thì người ta dốt mà không biết mình dốt lại còn sinh kiêu căng hoặc biết một mà tưởng biết mười. Sự khiêm tốn của Socrates cũng như quan niệm của Khổng Tử khi nói về cái biết: “Biết thì nói là biết, không biết thì nói là không biết, ấy là biết vậy“.
Biết mình là biết thân phận con người, yếu tính của mình. Biết mình là gì, bởi đâu, trở về đâu, sống để làm gì. Có biết ta mới định hướng cho mình một lối sống, lối đi chính xác, một đường hướng cụ thể dẫn dắt cuộc đời. Biết mình là một sự khôn ngoan tri thức. Người khôn ngoan đích thực sống vượt lên trên tất cả cảm giác cuộc đời, định luật vật chất, dư luận, sức thúc đẩy mù quáng của đam mê. Họ sống ở trần gian nhưng không bị luật trần gian tri phối, sống an vui, thanh thản, không phụ thuộc hay sợ dư luận. Cái khổ của con người là không biết mình có mặt để làm gì, sống cũng được mà chẳng sống cũng được, hoặc tiêu cực hơn chẳng muốn sống mà nhiều lúc muốn chết. Muốn chết nhưng lại sợ chết. Biết bao nhiêu giằng co mà con người khó chọn lựa dứt khoát giữa cuộc đời này. Sống mà không xác định mục đích cuộc sống, sự hiện hữu của con người thì cuộc sống chỉ là bất hạnh. Và đó cũng chính là đau khổ của kiếp người.
Trong cuộc sống thực tế, không ai muốn mình hay con cái mình sinh ra trở thành người xấu. Cũng như, không cha mẹ nào sinh con ra, bồng con trên tay mà lại ước muốn cho con mình trở thành đứa ăn cắp giỏi, nghiện ngập nhiều, cho dù ngay chính họ đang là người không tốt. Cái thiện từ lúc nào đó đã có sẵn trong lương tâm con người và khi họ làm trái tiếng nói lương tâm là một điều chẳng ai muốn. Trong thực tế những thói xấu lại ảnh hưởng do môi trường xã hội nhiều hơn. Hãy biết mình là trở về với chính mình để gặp ông thầy nội tâm ẩn tàng nơi đó, chứ không phải quay về với cái mình trơ trọi cô độc. Một sự trở về đơn phương nhưng lại đón nhận và tìm gặp tất cả. Một người tội lỗi trở về với con người thật của mình chính là trở về cội nguồn lương thiện của con người. Khôn ngoan chính là kinh nghiệm trở về. Nhân đức chính là sự hoàn thiện của con người để đặt được hạnh phúc- cứu cánh của đời người.
Đi tìm mục đích hay ý nghĩa của cuộc đời chúng ta phải hiểu bản chất của cuộc đời là gì? Có quan niệm cho rằng: “Chính cuộc đời là uổng phí trong khi đó chúng ta lại ước ao để được sống”. “Sanh, lão, bệnh đau khổ là cái giá mà chúng ta phải trả bởi vì chúng ta có cái thân này làm nơi trú ngụ cho chính chúng ta” . Sự sanh ra con người là sự sanh ra đau khổ . Con người phải trả giá cho việc tạo ra những ham muốn ích kỷ và hẹp hòi. Những sự thèm khát cho sự sinh tồn ở tương lai khiến cho con người không thể sống trọn vẹn trong những giây phút hiện tại. Và giây phút hiện tại chính là giây phút tuyệt vời nhất của cuộc sống con người. Như đức Phật đã khuyên trong kinh “Nhất Dạ Hiền Giả” (Trung Bộ kinh III):
“Quá khứ không truy tìm
Tương lai không ước vọng
Quá khứ đã đoạn tận
Tương lai lại chưa đến
Chỉ có pháp hiện tại
Tuệ quán chính ở đây…”
Với sự sống của con người thì chỉ có hiện tại là tương đối có thật. Nếu chúng ta không sống với hiện tại, không biết chấp nhận hiện tại như nó đang là để vận dụng hiệu quả khả năng và trí tuệ của mình đi đến an lạc hạnh phúc và giải thoát thì chúng ta sẽ bị khô héo và già cỗi theo thời gian.
Chắc không phải là việc ngẫu nhiên, mà là ý của tạo hóa khi “tạo” ra con người với một trái tim, một bộ óc, một cái miệng, đôi mắt, đôi tai, đôi tay và đôi chân. Nhịp đập của trái tim nhắc nhở con người phải biết trân trọng và yêu thương con người vô điều kiện. Bộ óc là tài sản to lớn quí giá nhất của con người, không có ai đánh cắp được và luôn sinh sản ra những sản phẩm tinh thần mới lạ (có thể dẫn tới của cải vật chất) cho những người biết cách đầu tư vào bộ óc của họ.
Cái miệng là một vũ khí rất lợi hại có tác dụng như con dao hai lưỡi, tùy người sử dụng cái miệng có thể là một phương tiện để giúp người, giúp đời hoặc một vũ khí hại người, hại đời. Đôi mắt được sắp xếp ở vị trí luôn nhìn về phía trước (nhìn hiện tại và tương lai ) và muốn nhìn lại phía sau (nhìn quá khứ) phải ngoái lại khi cần thiết. Đôi tai thì ở hai bên phải, trái để nghe từ hai phía, những lời tán dương, ca tụng lẫn phê bình, chỉ trích, chê bai để giúp con người phân biệt phải trái, đúng sai, thiện ác. Đôi vai liền đôi tay để gánh vác trọng trách để tự giúp bản thân và giúp người khác khi có thể. Đôi chân giúp con người di chuyển đó đây để mắt thấy, tai nghe, tim cảm nhận, óc suy nghĩ, miệng truyền bá những điều hay, tay đưa ra nâng giúp những người kém may mắn và cần được giúp đở. Tạo hóa đã sáng tạo ra con người và ban tặng cho con người những sản phẩm tuyệt vời. Nhưng con người chúng ta có sống như tạo hóa mong muốn khi tạo ra con người với hình dạng như vậy không?
Nói tóm lại, chúng ta không thể hiểu được bản chất chân thật của cuộc đời, bởi vì sự vô minh và sự khao khát tồn tại mãnh liệt của chúng ta. Đó là lý do tại sao chúng ta khao khát để được sinh tồn cho dầu phải chịu đựng những khổ đau, bất hạnh trên cuộc đời này. Vì vậy nếu không có một sự hiểu biết đúng đắn thì chúng ta khó mà tìm ra một mục đích cố định của cuộc đời trên thế gian này. Theo Phật giáo thì chúng ta là kết quả của những gì chúng ta đã là, và kết quả của những gì chúng ta đang là. Hay nói khác đi, bản chất của cuộc đời là duyên sinh, là giả tạo mà hợp thành. Khi đã hiểu được như thế rồi thì chúng ta có thể tìm ra và hiểu được bản chất chân thật của cuộc đời và mục đích của nó.
Chúc tất cả thành công trên đường tìm kiếm và hiểu được bản chất và mục đích của cuộc đời mình .
Tiếng dế kêu
…..Có hai người bạn đang cùng nhau đi giữa đường phố nhộn nhịp với bao tiếng xe cộ ồn ào. Giữa hàng trăm loại âm thanh hỗn hợp của xe cộ, của người, của nhạc cụ,… một cô bạn bỗng nói, “Tôi nghe tiếng dế kêu.” Người bạn kia sửng sốt đáp lại, “Làm gì có, làm sao có thể nghe được tiếng dế giữa hàng trăm thứ tạp âm trong thành phố? Bạn khéo tưởng tượng thật!” Người bạn đáp, “Không, mình thực sự nghe tiếng dế mà. Nào hãy theo mình.” Cả hai cùng đi về một góc đường, và tiến đến một bụi cây. Càng đến gần, tiếng dế càng rõ hơn. Bên dưới những chiếc lá khô, họ thấy một chú dế đang cất tiếng gáy say sưa.
“Chao ơi, thật là lạ. Tai bạn thật là tuyệt vời. Bạn có bí quyết gì vậy?” Người bạn kia hỏi. “Ồ không, tai mình cũng như bạn thôi, đâu có bí quyết gì đâu.” Nhưng hãy xem đây. Cô bạn liền lấy trong túi áo ra vài đồng tiền cắc và tung ra bên vệ đường. Ngay tức khắc, mấy chục người bộ hành ngừng lại và quay nhìn về phía phát ra âm thanh của những đồng tiền cắc. Cô bạn nói tiếp, “Bí quyết là ở chỗ đó. Vấn đề là bạn muốn nghe điều gì trong cuộc sống của bạn.”
* * *
Bạn thân mến, vấn đề là bạn muốn nghe điều gì trong cuộc sống chứ không phải tiếng gọi đó nhỏ hay lớn. Đúng như vậy. Hai người yêu nhau tuy ở xa ngàn dặm nhưng vẫn có thể nghe nhau, hiểu nhau; có đúng không bạn? Ngược lại, dù có ở bên nhau nhưng nếu họ không có tình yêu thì cũng không nghe nhau, không hiểu nhau. Vấn đề là bạn tìm điều gì trong cuộc sống mỗi ngày của bạn; vấn đề là bạn có ý thức và quan tâm đủ đến từng ngày sống của bạn, từng công việc bạn làm, từng con người bạn gặp gỡ? Vấn đề là bạn có thực sự muốn kiếm tìm hạnh phúc và ý nghĩa đời làm người của mình trong từng giây phút hiện tại hay không?!
Sống giây phút hiện tại là một điều dễ dàng cho những ai đặt mình trong hiện tại, nhưng thật khó khăn cho những ai không đặt mình trong giây phút hiện tại. Sống trong giây phút hiện tại tức là đặt mình vào từng hoàn cảnh mình đang sống, từng công việc mình đang làm, từng lời mình đang nói, và từng tư tưởng mình đang suy nghĩ. Thật buồn thay, nhiều người trong chúng ta sống trong hiện tại nhưng vẫn lẫn trốn giây phút hiện tại, hoặc chạy trốn không dám dối diện với giây phút hiện tại, hoàn cảnh hiện tại, và suy nghĩ hiện tại. Rất nhiều người trong chúng ta có thói quen là khi ngồi vào xe là mở Radio hay mở nhạc. Thói quen này có thể là cách để né tránh sự im lặng “đáng sợ” trong lòng mình; cũng có thể là để mình tìm một điều gì đó nhằm lấp đầy nỗi khao khát khó hiểu trong con tim. Nhiều người cầm ly nước uống ừng ực mà không hề để ý trên tay mình cầm cái gì, mình uống cái gì, hương vị ra sao. Nhiều người vừa ăn cơm mà mắt vừa liếc nhật báo, tai nghe iPod, và có khi còn xem TV nữa. Ôi thật tội nghiệp cho con người trong thời hiện đại. Những hành động này có phải vì chúng ta quá cực khổ; không đủ thời gian để giải trí; hay vì chúng ta sợ sự thinh lặng, sợ mất thời gian, hay sợ rảnh rỗi?
Sao bạn không thử đối diện với sự im lặng trong xe, trong con người mình một lần xem sao? Sao bạn không thử để ý những gì mình đang cầm trên tay (ly nước, cây viết, tờ báo, điện thoại…) để chỉ học cảm giác là mình đang cầm một vật gì đó cụ thể với tất cả sự tự chủ? Sao bạn không thử dẹp tất cả báo chí, Radio, TV, điện thoại trong bữa ăn hôm nay để tự mình cảm nghiệm và thưởng thức hương vị ngọt, cay, chua, đắng, thơm nồng… của thức ăn mà mình đang dùng?
Thưa bạn, sống giây phút hiện tại chỉ đơn giản là như thế đó bạn. Cứ trung thành để ý đến những gì bạn đang làm, đang cầm, đang nói, đang ăn, và đang thở… thì dần dần bạn sẽ yêu đời hơn; bạn sẽ dễ dàng cảm nghiệm vẻ đẹp của cuộc đời hơn. Giá trị hiện tại sẽ dần dần lộ ra cho bạn và chúng sẽ đẩy lùi những tư tưởng của hối tiếc về quá khứ, đồng thời chúng cũng sẽ lấn át những âu lo toan tính cho tương lai. Hiện tại là ngay lúc này, bạn đang đọc những dòng này, vật bạn đang cầm trên tay, … hãy để ý đến chúng.
Mong bạn áp dụng bài thực hành này thành công.
Br. Huynhquảng
Cầu Mong
– Cầu mong bạn sẽ tìm được sự thanh thản và yên bình trong một thế giới có nhiều điều mà bạn không thể hiểu được.
– Cầu mong nỗi đau mà bạn chịu đựng cũng như những xung đột mà bạn từng trải qua sẽ trao cho bạn sức mạnh để bạn vươn lên, đối diện những thử thách với lòng dũng cảm và sự lạc quan. Bạn hãy luôn biết rằng có một người nào đó hiểu và yêu bạn, người đó luôn ở cạnh bạn ngay cả khi bạn cảm thấy cô độc nhất.
– Cầu mong bạn sẽ khám phá sâu sắc lòng tốt của người khác để tin tưởng vào một thế giới yên bình.
– Cầu mong một lời tử tế, một cử chỉ làm yên lòng, một nụ cười nồng ấm sẽ được tặng cho bạn hằng ngày.
Và, cầu mong, bạn hãy trao tặng những món quà như vậy cho người khác ngay khi bạn nhận được chúng.
Hãy nhớ, mặt trời vẫn chiếu sáng khi cơn bão có vẻ như kéo dài vô tận. Bạn hãy hiểu rằng một người yêu thương bạn thật sự là khi họ không ở bên cạnh nhưng bạn vẫn cảm nhận được tình yêu và sự quan tâm của người ấy.
Hãy nhớ rằng trong cuộc sống những va chạm và đau khổ mà bạn gặp phải sẽ ít hơn nhiều so với những ước mơ và hạnh phúc mà bạn sẽ có.
– Cầu mong những điều mà bạn cảm thấy là khiếm khuyết trong hiện tại sẽ trở thành thế mạnh của bạn trong tương lai.Cầu mong bạn nhìn thấy tương lai của bạn như là một người đầy đủ sự hứa hẹn và những khả năng.
– Cầu mong bạn tìm thấy đầy đủ sức mạnh tinh thần để tự quyết định trong những tình huống tệ hại mà không bị bất cứ một người nào phán xử vì kết quả đó.
– Cầu mong bạn luôn luôn cảm thấy được yêu thương.
Sưu tầm
Niềm vui phát xuất từ tâm TÙY HỶ
-
Tùy là theo, hỷ là vui mừng. Tùy hỷ là vui mừng theo. Khi thấy bạn hay người thân làm điều lành hay việc tốt chúng ta phát tâm vui theo đó là tùy hỷ. Người làm lành vui bao nhiêu chúng ta vui bấy nhiêu. Người phát được niềm vui đó công đức bằng công đức người làm việc lành.
Thí dụ ông A đem mười đồng tới chùa cúng, chúng ta nghèo không có tiền cúng, thấy ông A cúng chùa ông vui sướng, chúng ta vui theo thì công đức của ông A cúng mười đồng với công đức tùy hỷ của chúng ta bằng nhau. Mới nghe qua thấy như bất công vô lý, chúng ta không cúng một xu nào tại sao công đức bằng ông A cúng mười đồng được ? Nhưng Phật nói công đức hai người bằng nhau.Có người hỏi :- Bạch Thế Tôn, tại sao công đức tùy hỷ và công đức bố thí bằng nhau ?Phật trả lời bằng một thí dụ: Cây đuốc thứ nhất đang cháy, có một người cầm cây đuốc thứ hai đến mồi. Khi mồi xong, cây đuốc thứ nhất cháy, cây đuốc thứ hai cũng cháy, ánh sáng hai cây đuốc đó không hơn kém nhau. Cây đuốc bị mồi, ánh sáng cũng không giảm bớt. Cũng vậy, người làm việc lành, chính họ đã có công đức và người phát tâm tùy hỷ công đức cũng ngang bằng với người làm lành đó. Tu nhẹ nhàng quá, không đợi chúng ta có nhiều tiền mới làm được việc công đức. Chỉ thấy ai làm lành chúng ta tùy hỷ tán thán là có công đức rồi.Tại sao tùy hỷ có công đức lớn như vậy ? Người có công có của đem ra giúp người là họ xả được tâm tham lam ích kỷ. Còn người phát tâm tùy hỷ thì xả được tâm tật đố, vì thông thường người thế gian thấy ai hơn mình là sanh tâm đố kỵ. Thí dụ hai huynh đệ đi chùa, ông A có mười đồng cúng chùa, mình không có thì buồn rồi nói móc nói ngoéo, chớ không có tâm tùy hỷ vui theo. Thấy người làm được mình làm không được sanh đố kỵ là tật xấu. Bây giờ chúng ta phát tâm tùy hỷ là dẹp được tật đố xấu xa nơi mình rồi. Người bố thí xả được tâm tham lam ích kỷ, người tùy hỷ xả được tâm tật đố thì công đức hai người bằng nhau.Ở thế gian, chúng ta thường thấy, thậm chí anh em ruột trong nhà, em làm ăn thất bại nghèo thiếu thấy anh làm ăn phát đạt được giàu sang thì có mặc cảm đố kỵ với anh. Do đó tình anh em phai nhạt xa cách. Tại vì sao ? Vì cái tâm tật đố không muốn ai hơn mình, thấy người hơn mình là sanh tâm đố kỵ. Đó là cái bệnh chung của con người. Thế nên chúng ta học đạo phải tập phát tâm tùy hỷ. Không phải đợi mình làm việc công đức mới vui, mà thấy ai làm được việc tốt đẹp, sống hạnh phúc, chúng ta đều phát tâm vui mừng theo.Một thí dụ nữa. Chúng ta nghèo ăn cơm hẩm với muối hột, bạn chúng ta giàu ăn cơm gạo lúa thơm với thịt cá đầy bàn. Thấy như vậy chúng ta tùy hỷ nói: “Anh sung sướng quá, tôi mừng cho anh được đầy đủ sung túc”. Thấy chúng ta tùy hỷ người bạn giàu đó có ghét chúng ta không ? – Không ghét mà thương, có thể còn giúp đỡ chúng ta nữa. Nhưng ở đời người ta có chịu làm như vậy không ? Hay mình ăn cơm hẩm với muối hột, bạn mình ăn cơm gạo lúa thơm với cá thịt đầy bàn, thì mình không vui, rồi kiếm chuyện nói xa nói gần, khiến cho tình bạn phai nhạt dần dần xa cách ? Mình đố kỵ người ta, người ta thương mình sao được ! Từ đó mà sanh ra ngăn cách, bạn trở thành thù do đố kỵ mà ra. Từ hoàn cảnh ăn ở, cách xử sự, cho đến làm việc thiện v.v… tất cả chúng ta đều tập phát tâm tùy hỷ. Người làm được việc mà chúng ta không đủ khả năng làm, chúng ta nên vui mừng theo.Một thí dụ khác. Hồi thuở bé đi học ở trường, khi thầy giáo kêu trả bài, hôm nào mình không thuộc bài bị điểm nhỏ, bạn mình thuộc bài được điểm lớn thì mình đố kỵ ghét bạn. Bạn siêng học, học giỏi được điểm lớn, mình lười biếng học dở thua bạn, tại sao mình lại ganh ghét đố kỵ ? Hoặc cuối năm học những bạn học giỏi được khen thưởng những món quà xứng đáng, còn mình học dở, khi thấy bạn lãnh quà, mình vui lây hay ganh ghét rồi kiếm chuyện để thách đố ? Cái tâm đố kỵ có từ thuở bé, chớ không phải bây giờ mới có, chúng ta mang sẵn nó từ thơ ấu. Giờ đây biết tu, chúng ta phải bỏ tâm tật đố, vì nó tương đương với tham lam; tham lam có thì tật đố cũng có.Người biết làm phước họ xả được lòng tham, người biết tùy hỷ bỏ được tâm tật đố. Như vậy mỗi người bỏ được một tật cho nên đức Phật nói: “Công đức ngang nhau”. Về sau huynh đệ đi chùa, họ có tiền của cúng Phật, cúng Tăng, mình không có cũng vui theo, mừng cho bạn có tiền của cúng chùa, được như vậy thì cả hai đều được công đức như nhau. Đừng mặc cảm mình nghèo không có tiền của cúng chùa không cùng đi chung. Nghĩ như vậy là trái đạo lý. Học hiểu ứng dụng đúng với lời Phật dạy chúng ta mới thấy Phật pháp công bằng, không thiên người giàu, không bỏ người nghèo. Ai cũng có phước hết chỉ cần có tâm lành là được.Tóm lại trong gia đình, anh em ai được giàu sang, ai được khá giả, ai được hạnh phúc, chúng ta đều vui mừng như chính chúng ta được. Ngoài xã hội từ bạn bè cho đến người láng giềng, ai được phú quí, ai có danh vị, chúng ta vui mừng như chính chúng ta được. Trong đạo huynh đệ ai có cái gì hay, cái gì tốt, chúng ta vui mừng như chính chúng ta được thì không còn khổ, lúc nào cũng có niềm vui; vui theo cái vui của người ! Chúng ta không bị tật đố làm cho cách biệt, làm mất tình anh em ruột thịt trong nhà, làm mất tình bạn bè ngoài xã hội và làm mất tình đạo bạn ở trong chùa. Được như vậy đi đến đâu chúng ta cũng có niềm vui, dù tay không, không giúp ai được việc gì. Trái lại chúng ta nghèo mặc áo rách, thấy người ta mặc áo lành thì đố kỵ xụ mặt xuống, như vậy làm gì có vui ! Đi đâu cũng buồn vì thấy người hơn mình, buồn tràn trề, ở đời làm sao mình bằng tất cả mọi người được !Bây giờ chúng ta biết tùy hỷ, thấy ai có cái gì hơn, chúng ta đều vui theo, mừng cho họ. Tâm niệm của người Phật tử phải là tâm niệm làm cho mọi người hết khổ. Phật là vị cứu khổ chúng sanh, chúng ta là Phật tử, tức con Phật phải có quan niệm làm cho chúng sanh hết khổ; nếu chưa hết khổ, ít ra cũng bớt khổ. Thấy mọi người bớt khổ về cái ăn, cái mặc, hoặc bớt khổ về cái gì là chúng ta vui mừng. Nếu chúng ta đố kỵ thì không phải con Phật. Vì vậy muốn được niềm vui đầu tiên, người Phật tử phải phát tâm tùy hỷ, ai có điều hay, cái tốt đều vui theo chớ không đố kỵ. Đó là cái vui thứ nhất của người mới vào đạo.HT. Thích Thanh Từ
Nguồn: Địa Tạng Vương Bồ Tát
Học Khiêm Tốn
Br. Huynhquảng
Một chàng thanh niên tìm đến vị đạo sĩ để học đức khiêm tốn. Chàng thanh niên hỏi, “Thưa thầy, con muốn học và sống đức khiêm tốn. Con phải làm gì để đạt được đức khiêm tốn?” Đạo sĩ đáp, “Hãy đi ra phố chợ và tìm gặp những ai thấp kém hơn con và làm điều tốt cho họ và sẵn sàng giúp họ những gì họ muốn giúp.”
Nghe xong, chàng thanh niên vội vã ra phố; anh nghĩ rằng, người thấp kém hơn anh chính là những người ăn xin vô gia cư. Anh tìm gặp một người ăn xin và mời người ấy đi ăn tối; anh đãi ông ta một bữa ăn thật ngon tại một nhà hàng sang trọng; sau đó anh còn cho thêm một ít tiền. Anh cảm thấy vui và tìm đến vị đạo sĩ để thông báo kết quả anh vừa hoàn thành. Anh hỏi, “Con đã làm điều thầy chỉ dạy, con đã đạt được đức khiêm tốn chưa?” “Vẫn chưa,” vị đạo sĩ đáp. Người thanh niên hỏi tiếp, “Vậy con phải làm gì thêm nữa để đạt đức khiêm tốn?” Vị đạo sĩ trả lời, “Con hãy tiếp tục tìm những ai thấp kém hơn con và làm điều tốt cho họ.” Chàng thanh niên tỏ vẻ không vui đáp, “Nhưng con vừa làm xong. Có phải thầy muốn con làm điều tốt cho thêm mười người nữa thì đạt được đức khiêm tốn?” “Vẫn chưa đủ,” đạo sĩ trả lời. Chàng thanh niên hỏi tiếp, “Vậy bao nhiều thì đủ, một trăm, hai trăm…có đủ để con đạt đức khiêm tốn không?” Đạo sĩ ân cần nhìn chàng thanh niên đáp, “Không phải là số việc tốt con làm, nhưng là cách nhìn của con. Con chỉ có thể đạt đức khiêm tốn khi con không còn thấy bất cứ một ai là người thực sự thấp kém hơn con.”
* * *
Câu chuyện hôm nay mời gọi chúng ta học cách nhìn sâu hơn về đức khiêm tốn. Khiêm tốn được suất phát từ nội tâm của chính mình. Đúng như vị đạo sĩ khuyên dạy chàng thanh niên, bao lâu chúng ta còn nhìn người khác thấp kém hơn mình thì bấy lâu chúng ta chưa học được đức khiêm tốn. Sự khiêm tốn mời gọi mỗi người chúng ta có cái nhìn đúng về chức tước địa vị, về danh phận của mình và của người khác. Sự khiêm tốn cũng mời gọi ta nhìn nhận sự giống nhau về bản chất của mỗi con người và sự khác nhau về địa vị. Hiểu sự giống nhau về bản chất của con người để không chỉ mình thực hiện lòng bác ái từ thiện cho người khác nhưng cũng để cho chính mình thực sự được lớn lên và trưởng thành trong ơn gọi làm người. Mình chỉ thực sự làm người trọn vẹn khi mình biết giá trị của con người mình và cũng đón nhận giá trị của người khác. Hiểu sự khác biệt về địa vị bên ngoài để mình học biết rằng mình không có quyền trên ai và cũng không ai có quyền trên mình. Mình cũng không “hơn” ai, và cũng chẳng ai “hơn” mình. “Hơn-thua” đó chẳng qua là một khái niệm không chuẩn xác; nhưng một cách chuẩn xác, nó phải được gọi là sự “khác nhau” thay vì là “hơn-thua.” Vì kinh nghiệm thực tế trong xã hội cho thấy, hôm nay anh có thể giữ địa vị là giám đốc ngân hàng, nhưng ngày mai anh có thể sẽ là tù nhân và bị mất tất cả quyền lợi, kể cả sự tự do. Như thế, khi nhận định và đón tiếp một người với khái niệm “hơn-thua” chúng ta dựa trên một nền tảng rất bấp bênh, không vững chắc, vì những gì chúng ta quan niệm và nhận định có thể sẽ thay đổi. Nhưng khi chúng nhận ra bản chất thật của mỗi con người – là một nhân vị, là một con người, thì những sự khác biệt của họ không làm cho chúng ta nhận định sai và lạc hướng vì chúng ta dựa trên nền tảng là bản chất thật của họ, là một nhân vị.
Bạn thân mến, không phải dễ để tập sống khiêm tốn một cách trọn vẹn. Học biết cách nhìn sự “khác nhau” thay vì là “hơn thua” là một nỗ lực liên lĩ và âm thầm trong tĩnh lặng. Trong tĩnh lặng chúng có thể nhận ra trong mỗi con người của mình luôn luôn có hai thế lực; chúng ta có thể gọi chúng một bên là yêu thương, chan hoà, tự tại, tha thứ, khiêm tốn; còn bên kia là ghen ghét, hận thù, ích kỷ, giận hờn, kêu căng. Nói cách khác, ai ai dù muốn dù không cũng có hai con thú ẩn dật trong mình, một con hiền và một con dữ. Với hình ảnh minh hoạ này, một em bé hỏi ông của em, “Vậy thưa ông, con thú nào sẽ thắng?” Ông trả lời, “Tuỳ vào việc con cho con nào ăn.”
Vâng, tuỳ vào việc ta “nuôi” con nào, thú dữ hay thú hiền; tuỳ vào việc ta chọn sống như thế nào; tuỳ vào sự suy nghĩ của ta để kết quả được sinh ra; và tuỳ vào cách đón nhận và nhìn người khác của ta, “hơn-thua” hay”khác nhau”để kết quả được sinh ra. Chúng ta cầu chúc nhau tập sống khiêm tốn hơn bằng khả năng nhận ra sự khác nhau nơi mỗi người nhưng cũng nhận ra bản chất thật giống nhau của mọi người.
Với hy vọng rằng, suy niệm và học hỏi đức tính khiêm tốn sẽ giúp mỗi chúng ta thêm trưởng thành hơn, khôn ngoan hơn, và bình an trong những ngày sắp tới của đời mình.
Theo tự điển Merriam-Webster, từ “khiêm tốn” trong tiếng Anh (humility) được bắt nguồn từ tiếng Latin, “humilis” nghĩa là “thấp;” “humus” nghĩa là “đất.” Như thế, khiêm tốn (humility) tức là nhận ra tình trạng thật của mình – vốn dĩ là đất bụi.
Trong trang đầu sách Kinh Thánh cũng diễn đạt ý tương tự, tổ tông của loài người có tên gọi Adam. Danh từ “Adam” được xuất phát từ danh từ “adamah” (ădāmâ) (Gn 2:7; 3:19), theo tiếng Hebrew, nghĩa là “đất.” Nói tóm lại, con người dù có thông minh tài trí tới đâu, vốn dĩ mình cũng chỉ là cát bụi. Thêm nữa, theo triết lý nhà Phật, “Khiêm tốn là hạ mình xuống…Khiêm tốn là hạnh người tu phải học suốt đời.”
Theo ông William Temple, “Khiêm tốn không có nghĩa là cho mình thấp hèn hơn người khác, và cũng không có nghĩa là hạ thấp những tài năng của chính mình. Nhưng khiêm tốn là sống tự do như chính mình là và cũng nghĩ về người khác với sự tự do mình đang hưởng vậy.”
Thực vậy, chúng ta được mời gọi sống khiêm tốn, không phải vì nhờ danh từ khiêm tốn mà làm cho chúng ta thêm hay, thêm đẹp. Nhưng thực ra khi chúng ta tập và thực hành sống khiêm tốn, ta tìm lại chính giá trị thật của con người; chính khi tìm ra giá trị thật của con người mình, con người ta trở nên đẹp, nên hay, và nên người hơn. Đúng như ông William Temple định nghĩa về đức khiêm tốn, khiêm tốn không có chuẩn để so sánh. Khiêm tốn không có nghĩa là tôi phải khiêm tốn “hơn” người kia, hay ngược lại người kia phải khiêm tốn “hơn-thua” ai đó. Nếu còn dựa theo chuẩn “hơn – thua” để học hỏi về khiêm tốn, thì chừng đó ta vẫn chưa thực sự hiểu về khiêm tốn. Khiêm tốn mời gọi ta nhận thức đúng về chính ta – ta như ta là. Câu hỏi được đặt ra: ta là ai mà nói như ta là? Khởi đầu của sự khiêm tốn chính là đặt câu hỏi về cội nguồn của chính mình. Càng đi ngược lại và sâu hơn về con người mình, mình sẽ dần dần sẽ nhận ra mình là ai – mình thực sự là ai!
Br. Huynhquảng
Bài học của nước được viết bởi một tác giả ẩn danh.
Qua bài này, chúng ta sẽ cùng nhau học hỏi về đức khiêm tốn trong đời thường.
“Nước dạy chúng ta phải biết sống làm sao…
Nước chảy đến đâu thì đem sự sống đến đó và phân chia cho hết mọi người, mọi vật cần đến nó. Nước tốt lành và vô vị lợi.
Nước hiểu biết cái gì không bằng phẳng của đất đai, nên nó san bằng tất cả. Nước công bằng.
Khi chảy xuống thấp nước không lưỡng lự dựa vào vách đá cheo leo. Nước khiêm tốn.
Mặt nước thì nhẵn nhụi phẳng phiu nhưng nó cũng có thể tạo thành vực sâu ẩn kín. Nước khôn ngoan.
Nếu nước gặp tảng đá chắn lối, thì nó chảy vòng quanh đá tảng. Nước biết nhịn nhục.
Sức mạnh của nước hoạt động ngày đêm để chiến thắng chướng ngại. Nước kiên trì.
Dù có phải chịu biết bao sóng gió đi nữa, nhưng không bao giờ, không một giây phút nào, nước đánh mất đi hướng đi vĩnh cửu của nó là chảy ra biển khơi: nó ý thức về đích tới của mình. Và cho dù thường khi có vẩn đục đi nữa, nó luôn cố gắng trong sạch trở lại.