Our Practice

Recent Pages :  1  2  3  4  5  6  7

♥ Kindness is the key that opens the door to Happiness.

  ♥ If you find stumbling blocks in your path, use them as stepping stones to move closer to the good in life.

  ♥ Love is a reflection of what’s inside of you. Reflect beauty, kindness, and charity.

  ♥ Life itself cannot give you joy unless you really want it.
Life just gives you time and space, it’s up to you to fill it.

  ♥ Find your joy: Laugh often and much
Breathe in the pure scent of fresh flowers.

  ♥ Một chút trong cuộc đời

Một chút những viên đá nhỏ có thể tạo thành một ngọn núi lớn.

Một chút những bước chân có thể đạt đến ngàn dặm.

Một chút hành động của tình yêu thương và lòng khoan dung cho thế giới những nụ cười tươi tắn nhất.

Một chút lời an ủi có thể làm dịu bớt những đau đớn to tát.

Một chút ôm siết ân cần có thể làm khô đi những giọt nước mắt.

Một chút ánh sáng từ những ngọn nến có thể làm cho đêm không còn tối nữa.

Một chút ký ức, kỷ niệm có thể hữu ích cho nhiều nǎm sau.

Một chút những giấc mơ có thể dẫn đường cho những công việc vĩ đại.

Đó là những cái “một chút” nhỏ bé có thể mang đến niềm vui hạnh phúc lớn nhất cho cuộc sống. Và bây giờ chúng ta sẽ cùng gặp những ai đã trao tặng cho chúng ta những cái một chút trong cuộc đời để nói với họ rằng: “Cảm ơn bạn vì tất cả những một chút mà bạn đã giúp đỡ cho tôi”.

Sưu Tầm

Một nghệ thuật hạnh phúc

nguyễn duy nhiên

Vài năm trước đây, trường đại học the University of Wisconsin–Madison có tổ chức một cuộc thử nghiệm khoa học có liên quan đến vấn đề đo lường hạnh phúc.  Các bác sĩ chuyên khoa về thần kinh não bộ dùng những bộ máy tinh xảo để đo lường những làn sóng trong bộ não của vài trăm tình nguyện viên, thuộc mọi giới, tham gia cuộc thử nghiệm nghiên cứu về mức độ hạnh phúc của con người.  Với khám phá của khoa học ngày nay thì khi một người cảm thấy hạnh phúc, những làn sóng trong phần não phía trước bên trái của họ, left prefrontal cortex, hoạt động rất mạnh.
 .
 Và trong số những người tình nguyện tham gia, có một vị tu sĩ Phật giáo người Pháp tên là Matthieu Ricard.  Điều thú vị là khi các bác sĩ đo những làn sóng não bộ có liên quan đến hạnh phúc của Ricard, trong lúc ông ngồi thiền, thì nhận thấy chúng hoạt động rất mạnh.  Những dữ kiện, con số về mức độ hạnh phúc của ông họ ghi nhận được quá cao so với hàng trăm tình nguyện viên khác.  Thật ra thì con số ấy vượt ra ngoài cả mức giới hạn của một người bình thường.  Sau cuộc thử nghiệm này, các nhà khoa học gọi đùa và đặt tên cho ông Matthieu Ricard là “Người hạnh phúc nhất trên thế giới”, the happiest man in the world.
     .
Và khi được hỏi là trong khi ngồi thiền để các bác sĩ thử nghiệm, ông đã nghĩ những gì mà trong tâm lại phát khởi nhiều hạnh phúc như vậy?  Ricard trả lời rằng ông chỉ ngồi thực tập Niệm Tâm Từ, Metta Meditation.  Ông không suy nghĩ gì hết, chỉ niệm thầm những lời cầu mong cho tất cả mọi người, trong đó có chính ông, luôn được an ổn không gặp nạn tai, lúc nào cũng có hạnh phúc và không bị khổ đau nào.
 .
Ngày xưa Phật dạy phương pháp niệm tâm từ này để giúp các đệ tử của Ngài chuyển hóa những sợ hãi và phiền não của mình.  Và có lẽ khoa học ngày nay đã chứng minh được điều ấy, rằng tình thương và tâm từ thật sự có một năng lực chuyển hóa những thống khổ và làm phát sinh trong ta một hạnh phúc rất lớn.  Và nếu như chúng ta có khả năng mở rộng lòng mình ra, thì ta sẽ có thể tiếp nhận được thật nhiều hạnh phúc.
.
Nhưng bạn biết không, có lẽ Phật cũng biết rằng đó không phải là một việc dễ làm, nên Ngài mới dạy cho chúng ta thực tập phương pháp niệm tâm từ.  Có những lúc ta cảm thấy khó có thể nào mở rộng tình thương của mình ra được cho chung quanh, và nhiều khi ngay cả cho chính mình.  Nhưng có thể vì chúng ta nhìn xa rộng quá chăng, chúng ta nghĩ rằng tâm từ phải được biểu hiện ra bằng một hành động gì to tát lắm chăng?  Tôi nghĩ, đôi khi một tình thương lớn lại thường được biểu hiện trong những điều nhỏ nhặt nhất.

Một đôi giày

Có một anh lính cứu hỏa tình nguyện (volunteer fireman) kể lại một bài học trong đời mình mà anh ghi nhớ mãi.  Anh Mark Bezos là một người luôn mang trong tim một lý tưởng muốn giúp người và phục vụ cho đời.  Anh là một trong những người đứng đầu của một tổ chức thiện nguyện lấy tên Robin Hood ở thành phố New York, với mục đích chống nghèo đói và giúp đở những người bất hạnh.  Và ngoài công việc ấy, trong những giờ rảnh anh lại tham gia vào một đội cứu hỏa tình nguyện trong vùng.
  .
Anh kể lại vụ chữa cháy đầu tiên của anh xảy ra vào một đêm khuya mùa đông, và bài học ấy anh vẫn còn ghi nhớ mãi.  Những người lính cứu hỏa tình nguyện ai cũng rất là hăng say, mỗi khi có vụ cháy nào thì ai cũng muốn mình sẽ là người anh hùng xông vào căn nhà đang bốc lữa để cứu nạn nhân, hoặc được làm một việc gì đó thật quan trọng.
 .
Lần ấy, khi anh vừa đến nơi xảy ra cuộc cháy, thì đã có một người lính cứu hỏa tình nguyện khác đến trước anh rồi.  Bên ngoài là cô chủ nhà đang đứng với vị lính Chỉ Huy chữa cháy, cô ta che dù, đứng chân không, dưới cơn mưa lạnh, vẽ mặt rất hoang mang.  Vị Chỉ Huy ra lệnh cho người lính Cứu Hỏa đến đầu tiên, xông vào căn nhà đang cháy để cứu con chó thân yêu của cô chủ nhà đang còn bị mắc kẹt bên trong.  Anh Bezos cảm thấy một sự ganh tỵ nổi lên trong lòng, phải chi anh đến sớm hơn một chút thôi thì mình đã là một vị anh hùng rồi, và suốt đời anh sẽ có thể kể lại cho người khác nghe về hành động dũng cảm và đầy nghĩa hiệp này của mình.
 .
Đến phiên anh, vị Chỉ Huy quay sang nói “Bezos, tôi muốn anh vào trong căn nhà ấy, lên lầu, vào trong phòng ngủ để lấy cho cô ấy một đôi giày!”  Một đôi giày!  Tuy không hài lòng lắm, nhưng anh cũng nghe theo lệnh, đi vào căn nhà, lúc ấy lửa cũng đã được dập tắt gần hết, lên lầu và tìm một đôi giày.  Tuy làm nhưng trong lòng anh cảm thấy mình chẳng là một vị “anh hùng” chút nào hết!  Và lẽ dĩ nhiên, khi mang đôi giày ra ngoài, anh thấy cô chủ đang mừng rỡ ôm con chó của mình, và thờ ơ với đôi giày mà anh mang ra cho cô ta.
.
Vài tuần sau đó, đội cứu hỏa của anh nhận được một lá thơ cám ơn thật chân thành của người chủ nhà về những hành động can đảm và sự chăm sóc của mọi người đối với cô ta.  Và cô viết, hành động biểu lộ tình thương sâu sắc nhất mà cô ghi nhận được, là có một người nào đó hôm ấy đã mang ra cho cô một đôi giày khi cô đứng dưới cơn mưa lạnh.  Và đó là điều mà cô sẽ trân quý và ghi nhớ mãi suốt đời mình.
.
Anh Bezos chia sẻ, đó là một bài học rất lớn trong đời anh.  Trong sự nghiệp giúp người và giúp đời, anh đã từng chứng kiến từ những dự án, việc làm to tát giúp thật nhiều người, cho đến những hành động nhỏ nhặt chăm sóc cho một cá nhân.  Và điều mà anh học được là: tất cả đều quan trọng như nhau.  They all matter.  Chúng ta đừng chờ đợi.  Đừng đợi đến khi nào mình thật giàu có mới có thể đóng góp, đừng chờ ta phải có một dự án to lớn giúp trăm ngàn người mới thi hành…  chúng ta đều có thể đóng góp cho đời bằng tình thương chân thật của mình.  Cuộc đời ít khi nào cho ta có cơ hội để trở thành một vị anh hùng, nhưng lúc nào cũng có nhiều dịp để giúp ta làm vơi bớt khổ đau của kẻ khác…

 Làm sao để có hạnh phúc?

Trong cuộc sống chúng ta thường khép kín mình lại, vì sợ rằng mở rộng lòng ra cũng có nghĩa là ta sẽ có cơ hội tiếp nhận khổ đau.  Nhưng nếu ta mở lòng ra để ban rải tình thương thì đó lại là một việc hoàn toàn khác, vì luật tự nhiên là ta sẽ nhận lại được những gì mình ban cho.  Khi tình thương càng rộng thì hạnh phúc của ta lại càng lớn.
Và đó không phải là một giáo lý viển vông, xa vời đâu bạn, vì khoa học ngày nay cũng đã chứng minh được điều đó rồi.  Có lẽ chúng ta sẽ không bao giờ trở thành được là một người hạnh phúc nhất thế giới như ông Matthieu Ricard, nhưng tôi nghĩ rằng chúng ta chắc chắn sẽ là một người có hạnh phúc.
 .
Chúng ta hãy bắt đầu bằng những việc làm bình thường và gần gũi với mình nhất, vì dầu bất cứ trong hoàn cảnh nào chúng ta bao giờ cũng có một cái gì đó chân thật, dầu nhỏ nhặt đến đâu, để ban cho.  Như một giọt nắng trong sáng, như một bông hoa tỏa hương cho cuộc đời, như một nén trầm thơm, sẽ được gió cuốn đi chan hòa và chia sẻ cho biết bao nhiêu người khác.  Và tôi nghĩ, đó là phương cách Phật dạy để chúng ta có được hạnh phúc.
.

nguyễn duy nhiên

Source: Thư-Viện Chùa Linh Sơn Austin

Hoa Nghe Tay (1a)

♥ Hạnh Phúc là sự bình an nội tâm ! “Khi phiền não: Tâm mình hãy buông ra hết tất cả và nhìn mọi thứ đều mới cả. Rồi sẽ thấy không có gì là đáng, Tâm mình sẽ được yên lặng, và an bình. “

Hoa Nghe Tay

 ♥ In quietness and in trust shall be your strength.

♥ Hãy Sống trong từng suy nghĩ của mình

♥ Giữ Tâm mình lúc nào cũng Yên Lặng là tốt rồi.

Niệm Phật là phương pháp Tu Tịnh.
Niệm Phật là: Lấy Nhiều Niệm Ðể Truy Ra Niệm, nghĩa là lấy nhiều suy nghĩ lung tung cùng một lúc để quay về chỉ còn có nghỉ đến Phật và Niệm Hồng Danh Phật. Khi Tâm mình chỉ nghĩ một việc hay niệm một câu Lục Tự Di Ðà: ” Nam Mô A Di Ðà Phật” thì tâm mình sẽ được Tịnh và Tu Tịnh mình sẽ có trí tuệ Phật Sanh, chuyển mê thành giác.

♥ Niệm Phật để tâm hồn thanh thản.

♥ Niệm Phật để an trụ tâm.

♥ Niệm Phật để không cho niệm ác sinh. Nếu niệm ác đã nảy sinh thì không cho nó phát triển.

♥ Niệm Phật để giữ gìn thân- khẩu-ý.

♥ Niệm Phật là phương thuật giữ gìn Chánh niệm.

♥ Niệm Phật tới vô niệm chính là thiền.

♥ Niệm Phật để lúc lâm chung chẳng còn lo sợ.

Niệm Phật là một phương pháp an tâm rất hiệu quả.
Những lúc bị lo âu, hồi hộp và bất an, để trấn an bản thân thì chúng ta nên niệm Phật, đưa tâm của mình về với câu Phật hiệu, nhờ vào sự nhất tâm trì niệm của bản thân cộng với sự gia trì của chư Phật, chúng ta dễ dàng tìm lại được sự an tĩnh.
Đây là một điều lợi ích rất thiết thực của pháp môn Niệm Phật.
Dù là ai đi nữa, nếu biết dùng câu Phật hiệu để tìm lại sự an tĩnh của tâm hồn thì đều dễ dàng đạt được kết quả như ý muốn.

Hoa Nghe Tay 2015 (6)

Gốc Rễ của AN LẠC

Thích Tâm Bình

Ta muốn có hanh phúc và an lạc, ta phải biết thực tâp và nuôi dưỡng đời sống của Từ, Bi, Hỷ, Xã. Trong đời sống của ta có Từ, Bi, Hỷ, Xã là ta có nội dung của hạnh phúc và an lạc.

Từ là không sợ hải khổ đau mà phải bíêt ôm ấp nỗi đau của ta và của ngưðì  để chăm sóc, khíên cho chúng không có loang lô˜ ra trong tâm thức ta và trong đðì sống của ta. Ta phải chăm sóc nỗi đau của ta và của ngưðì, bằng tất cả trái tim hiểu bíêt và thưðng yêu của ta một cách chân tình. Ta chăm sóc những nỗi đau như vây mỗi ngày qua bưðc đi, hði thở, nu cưðì và cách nhìn mọi sự hiện hữu, hay cách nghe các âm thanh của trần thê′, chắc chắn những nỗi đau của ta hay những nỗi đau của ngưðì se˜ trở nên lành lặn.

Bi là không tránh né khổ đau mà chạm trán với khổ đau bằng con mắt trầm tĩnh, bằng một trái tim nhiệt tình, bằng cái nhìn thấy sâu lắng và chính xác đối với những tập khởi khổ đau và với đôi bàn tay nhẹ nhàng mà cương quyết trong hành động để đào xới và bứng tận gốc rễ của chúng. Nên, Bi là chất liệu giúp ta và mọi người vượt thoát mọi gốc rễ của khổ đau. Bởi vậy, Bi là chất liệu đánh bạt mọi nguyên nhân gây khổ, thiết lập và tái tạo tâm thức bình an cho ta và cho tất cả mọi người. Trong tâm hồn ta, thiếu chất liệu của Bi, thì mọi hạnh phúc đến với ta chỉ là những hạnh phúc hư ảo, chỉ là những hạnh phúc có đó mà không đó.                                                                                                    

Hỷ là không đàn áp những nguðì có khã nång yêú kém so vðí ta và không phân biệt hay khíêp đãm vðí những nguðì có khã nång vuợt trội hðn ta. Hỷ là chât liệu lọai trừ những hạt gíông mặc cãm tự- ti và tự- tôn nði ta, khiến cho ta có khả năng tùy thuận đối với những gì tốt đẹp và hạnh phúc xảy ra từ người khác.

Ganh tỵ là một trong những chất liệu làm vẩn đục tâm ta, khiến cho đời sống của ta trở nên chật hẹp và khó khăn, nên Hỷ là chất liệu xóa sạch những vết bẩn của ganh tỵ đang hiện hành nơi tâm ta, khiến tâm ta hoạt động trong sự tương vui, rộng lớn và trong sáng. Nên, Hỷ là chất liệu giúp ta vượt thoát gốc rễ của khổ đau, và khiến ta có khả năng động viên, phát huy những điều tốt đẹp từ người khác.

Trong tâm hồn ta thiếu chất liệu của Hỷ, ta không thể có chất liệu đồng cảm chân thực đối với người, ta không có khả năng thân cận với một người tốt để học hỏi và ta không có khả năng làm thay đổi những người kém may mắn hơn ta. Nên, trong tâm ta thiếu chất liệu của Hỷ, ta là người sống trong cô độc và chết trong cô đơn, ta đẩy hạnh phúc đi về phía chân trời xa lạ.

♥ Xã là tích cực hành động theo Từ, theo Bi, theo Hỷ mà không có thủ lợi. Chất liệu của Xả giúp ta vượt thoát mọi hoạt động có cơ tâm, của thất vọng, hận thù và oán trách, đem lại sự an toàn cho tâm hồn ta và cho những người mà ta thương yêu.

Trong tâm hồn ta, thiếu chất liệu của Xả, chúng sẽ tạo ra trăm mối ngổn ngang cho đời sống của ta, nên ta bị quá khứ lôi kéo, khiến ta hoàn toàn không có tự do với quá khứ; ta bị tương lai cuốn hút, khiến ta không có tự do với tương lai và ta bị hiện tại cột chặt, khiến ta bị mất chủ quyền đối với hiện tại, và nếu trong tâm hồn của ta thiếu chất liệu của Xả, thì ta ở nơi đây là ta bị cột chặt ở đây; ta ở nơi kia là ta bị cột chặt ở nơi kia và ta tiếp xúc với bất cứ cái gì, thì ta sẽ bị cái đó trói buộc ta, khiến ta không có tự do đối với mọi thời gian, đối với mọi không gian và đối với mọi sự hiện hữu. Nên, Xả là chất liệu giúp ta có giải thoát và tự do ngay trong mọi hành động của ta.
.
Tâm Xã của ta càng lớn, thì sự tự do của ta càng nhiêù, và tâm Xã của ta vô lượng, thì hanh phúc của ta là vô cùng và tình yêu của ta trở thành vô tận.
.
Bởi vậy, trong đời sống của ta mà thiếu chất liệu của Xả, thì ta làm bất cứ cái gì, ta sẽ bị cái đó trói buộc, ta sẽ bị khổ đau và thất vọng bởi cái đó.Thiếu chất liệu của Xả, không những khiến cho đời sống của ta bị chết ngột bởi tài sản, bởi nhận thức mà còn khiến cho ta bị chết ngột bởi tình cảm. Nếu một người tu tập tịnh độ, tâm của họ thiếu chất liệu của Từ, Bi, Hỷ, Xả thì cảnh giới tịnh độ của họ là cảnh giới của đất cát khô cằn.
Nếu một người tu tập thiền, mà tâm của họ thiếu chất liệu của Từ, Bi, Hỷ, Xả thì cảnh giới của họ chỉ là những núi đá đứng trống trơ sừng sững và chai lỳ, hoàn toàn mất hết mọi cảm giác và tuệ giác. Và, nếu một người chuyên gia bố thí, mà tâm họ thiếu chất liệu của Từ, Bi, Hỷ, Xả thì chỉ làm chồng chất thêm những bất công cho xã hội và khổ đau của con người.
Từ – Bi – Hỷ- Xả là chất liệu cần phải có trong mọi hành động của ta, trong mọi lời nói của ta và trong mọi ý nghĩ của ta, khiến cho hạnh phúc của ta từ đó mà sinh khởi và lớn lên.
Hạnh phúc của ta sinh khởi và lớn lên từ nơi tâm Từ, Bi, Hỷ, Xả của ta mới là hạnh phúc chân thực. Hạnh phúc và an lạc chân thật của ta phải sinh khởi từ nơi đó, mà không phải sinh khởi từ bất cứ nơi nào. Sáu quan năng của ta là những điều kiện biểu hiện của một tâm hồn có hạnh phúc hay của một tâm hồn đau khổ mà không phải là nguyên nhân của hạnh phúc hay khổ đau.  Nguyên nhân của Hạnh Phúc và An Lạc là chất liệu Từ, Bi, Hỷ và  Xãnði tâm của môi˜ chúng ta và nguyên nhân của khổ đau thì ngược lại !

Hoa Nghe Tay 2015 (7a)

Quán niệm được an lạc

Quảng Tâm

Trong giáo lý của đạo Phật, có một pháp môn tu tập khá quen thuộc, có thể làm giúp lắng sạch nội tâm và điều trị được các chứng bệnh khác nhau của tâm thức như căng thẳng bất an hoặc phiền muộn khổ não, khiến cho tâm trở nên trong sáng, hân hoan, thanh thản, an lạc. Đó là pháp môn niệm Phật hay phương pháp nghĩ nhớ về Phật: “Ở đây, này Visàkhà, Thánh đệ tử niệm Phật: “Đây là Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn”. Do vị ấy niệm Phật, tâm được tịnh tín, hân hoan khởi lên, các phiền não của tâm được đoạn tận” (1).Niệm (sati/anussati/anussarana) tức là nghĩ nhớ, ức niệm, suy tưởng, chú tâm quan sát hay hướng tâm đến một đối tượng nào đó thuộc tâm thức và giữ cho đối tượng đó luôn luôn sinh động ở trong tâm, theo đó tâm được an trú, định tĩng và sáng suốt. Đây là phép luyện tâm trong đạo Phật, có khả năng chuyển đổi tâm thức từ tán loạn sang định tĩnh, từ cấu uế sang thanh tịnh, từ xáu ác sang hiền thiện, hoặc có khả năng chuyển hóa cái nhìn từ u ám đến sáng suốt, từ mê lầm sang giác ngộ.Thông thường, niệm hay chú tâm trên đối tượng có hai tác dụng. Thứ nhất, giữ cho tâm định tĩnh, an trú, chuyên nhất trên đối tượng, không để tâm dao động tán loạn, nhảy từ đối tượng này sang đối tượng khác. Thuật ngữ đạo Phật gọi trạng thái như vậy là tịnh chỉ (samatha), có khả năng đem lại cho người thực hành các kinh nghiệm hỷ lạc sâu lắng và nội tâm an tịnh. Thứ hai, khiến cho tâm trở nên tỉnh giác sáng suốt, nhận biết rõ ràng và sâu sắc bản chất của đối tượng. Phật học gọi trạng thái như vậy là tuệ quán (vipassanà), có khả năng giúp cho hành giả thành tựu tuệ giác, hướng đến mục tiêu giải thoát khổ đau. Từ định nghĩa trên về phép quán niệm, đạo Phật đề xuất nhiều đối tượng quán niệm khác nhau, cốt yếu giúp cho người thực hành tìm thấy phương pháp thích hợp để luyện tập tâm trí trở nên định tĩnh, trong sáng và thanh tịnh. Niệm Phật hay chú tâm trên các đức tính của Phật là một trong số các phương pháp quán niệm mang ý nghĩa luyện tâm như vậy.

Thông thường, chúng ta sống hàng ngày với cái tâm đổ đầy ký ức và dự tính, không còn chỗ trống cho một niệm nghỉ ngơi. Chúng ta hết truy tìm quá khứ lại mơ tưởng tương lai và do vậy chúng ta luôn cảm thấy căng thẳng bất an hoặc lo âu phiền muộn, không có được một giây phút thật sự an lạc. Chúng ta không được an lạc vì tâm chúng ta không đứng yên một chỗ. Nó hết bị ám ảnh bởi ký ức quá khứ lại bị thôi thúc bởi ý tưởng tương lai và do vậy nó không an trú trong hiện tại. Nó đang bị dục vọng lôi cuốn, làm cho quay cuồng, căng thẳng và mệt mỏi ở trong thế giới của những cảm xúc bấn loạn hoặc vui buồn hoặc yêu ghét. Nói cách khác, tâm của chúng ta đang bị uế nhiễm bởi các tạp niệm, tức các ký ức hay vọng tưởng không ngừng xâm chiếm khiến cho tâm trở nên dao động quay cuồng, rơi vào vòng xoáy của tư duy nhị nguyên phân biệt, tạo nên các phản ứng tâm lý hoặc vui buồn hoặc yêu ghét. Vui hay buồn, yêu hay ghét là các trạg thái dao động ô nhiễm của tâm thức, phát sinh cơ bản do tạp niệm hay bởi tâm phân biệt vọng tưởng. Niệm Phật hay nghĩ nhớ về Phật, do đó, là phương cách đưa tâm về với hiện tại, khiến cho tâm an trú trên các đức tính cao quý của Phật hay khiến cho toàn bộ tâm thức được đổ đầy và thấm nhuần Phật chất, không có chỗ trống cho các tạp niệm hay vọng tưởng xen vào làm cho tâm trở nên quay cuồng hay ô nhiễm.

Như vậy, niệm Phật có công năng làm lắng sạch tâm cấu uế nhờ chuyên tâm nghĩ nhớ về Phật hay nhờ an trú trên các đức tính thánh thiện của Phật. Nói khác đi, do tâm không rời Phật mà các vọng tưởng hay tạp niệm không có cơ hội xâm nhập làm cho tâm ô uế. Đây là phương pháp giữ cho tâm định tĩnh, trong sáng, thanh tịnh, không để cho các tạp niệm hay vọng tưởng sinh khởi, xâm nhập làm ô uế tâm thức. Theo cách như vậy, hành giả tu học Phật pháp cũng có thể chọn một đối tượng hiền thiện khác để quán niệm chẳng hạn, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới, niệm Thí, niệm chư Thiên…Nhờ chuyên tâm, chú tâm trên các đối tượng hiền thiện như vậy mà tâm được an trú, định tĩnh, trong sáng, không còn bị ô nhiễm bởi các tạp niệm hay niệm bất thiện. Nói cách khác, nhờ chuyên tâm nghĩ nhớ hay suy nghĩ về điều lành thiện mà các niệm ác hay các ý tưởng điên đảo được đẩy lùi; hành giả cảm thấy lòng mình được tịnh tín, hân hoan, không còn lo âu phiền não. Kinh văn truyền thống gọi pháp môn tu tập như vậy là “sự gột sạch tâm uế nhiễm bằng phương pháp thích nghi” (2), nghĩa là nỗ lực dùng niệm thiện đánh bật niệm bất thiện hay các ý tưởng điên đảo ra khỏi tâm thức, khiến cho tâm không còn phiền não nhiễm ô, tựa như người thợ mộc dùng cái nêm nhỏ đánh bật ra, đánh văng ra một cái nêm khác vậy. Trong bài thuyết giảng cho vị tín nữ Visàkhà, Đức Phật nêu rõ một số phương pháp giúp gột sạch tâm uế nhiễm và xác nhận kết quả lợi lạc của pháp môn niệm Phật hay phương pháp vận dụng niệm thiện để đối trị và loại bỏ niệm bất thiện:

“Này Visàkhà, thế nào là tâm uế nhiễm được gột sạch với phương pháp thích nghi?

Ở đây, này Visàkhà, Thánh đệ tử niệm Phật: “Đây là Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn ”. Do vị ấy niệm Phật, tâm được tịnh tín, hân hoan khởi lên, các phiền não của tâm được đoạn tận”. Như vậy, này Visàkhà, là tân uế nhiễm được gột sạch với phương pháp thích nghi.

Và này Visàkhà, thế nào là tâm uế nhiễm được gột sạch với phương pháp thích nghi?

Ở đây, này Visàkhà, Thánh đệ tử niệm Pháp: “Pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảng, thiết thực hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được người trí tự mình giác hiểu”. Do vị ấy niệm Pháp, tâm được tịnh tín, hân hoan khởi lên, các phiền não của tâm được đoạn tận.

Và này Visàkhà, thế nào là tâm uế nhiễm được gột sạch với phương pháp thích nghi?

Ở đây, này Visàkhà, Thánh đệ tử niệm Tăng: “Diệu hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn; trực hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn; ứng lý hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn; chơn chánh hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn, tức là bốn đôi tám chúng. Chúng đệ tử Thế Tôn là đáng cung kính, đáng tôn trọng, đáng cúng dường, đáng được chắp tay, là phước điền vô thượng ở đời”. Do vị ấy niệm Tăng, tâm được tịnh tín, hân hoan khởi lên, các phiền não của tâm được đoạn tận.

Và này Visàkhà, thế nào là tâm uế nhiễm được gột sạch với phương pháp thích nghi?

Ở đây, này Visàkhà, Thánh đệ tử niệm Giới: “Giới không bị phá hoại, không bị đâm cắt, không bị nhiễm ô, không bị uế nhiễm, đem lại giải thoát, được người trí tán thánh, không bị chấp thủ, đưa đến thiền định”. vị ấy niệm Giới, tâm được tịnh tín, hân hoan khởi lên, các phiền não của tâm được đoạn tận.

Và này Visàkhà, thế nào là tâm uế nhiễm được gột sạch với phương pháp thích nghi?

Ở đây, này Visàkhà, Thánh đệ tử niệm Thiên: “Có chư Thiên bốn Thiên Vương; có chư Thiên cõi Trời Ba mươi ba; có chư Thiên Yàmà; có chư Thiên Tusita (Đâu suất); có chư Thiên Hóa lạc; có chư Thiên Tha hóa tự tại; có chư Thiên Phạm chúng; có chư Thiên cao hơn nữa. Đầy đủ với lòng tin như vậy, chư Thiên ấy, sau khi chết ở chỗ này, được sanh tại chỗ kia. Lòng tin như vậy cũng có đầy đủ nơi ta. Đầy đủ với giới như vậy, chư Thiên ấy, sau khi chết ở chỗ này, được sanh tại chỗ kia. Giới như vậy cũng có đầy đủ nơi ta. Đầy đủ với nghe pháp như vậy, chư Thiên ấy, sau khi chết ở chỗ này, được sanh tại chỗ kia. Nghe pháp như vậy cũng có đầy đủ nơi ta. Đầy đủ với thí như vậy, chư Thiên ấy, sau khi chết ở chỗ này, được sanh tại chỗ kia. Thí như vậy cũng có đầy đủ nơi ta. Đầy đủ với tuệ như vậy, chư Thiên ấy, sau khi chết ở chỗ này, được sanh tại chỗ kia. Tuệ như vậy cũng có đầy đủ nơi ta. Khi vị ấy niệm tín, giới, nghe pháp, thí và tuệ của tự mình và của chư Thiên ấy, tâm được tịnh tín, hân hoan sanh khởi, các phiền não của tâm được đoạn tận” (3).

Nhìn chung, niệm Phật, niệm Pháp, hay niệm Tăng…là pháp môn tu tâm tương đối dễ hành trì đối với mọi người. Nó đơn giản là dùng một đối tượng hiền thiện để quán niệm, để nhiếp tâm, an trú tâm, khiến cho tâm trở nên chuyên chú, định tĩnh, trong sáng, không tán loạn, không còn bị quay cuồng hay uế nhiễm bởi dục vọng, bởi các niệm bất thiện hay bởi tạp niệm. Kinh Pháp Cú nói rằng:

Tâm hoảng hốt, dao động,
Theo các dục quay cuồng;
Lành thay điều phục tâm,
Tâm điều, an lạc đến (4).

Quán niệm là một cách điều tâm, khiến cho tâm được tịnh tín, an trú, định tĩnh, trong sáng, không còn hoảng hốt, dao động, mê loạn, quay cuồng theo các dục. Do đó, quán niệm được an lạc là vậy.

Chú Thích

1. Kinh Các Lễ Uposatha, Tăng Chi Bộ
2. Kinh An Trú Tầm, Trung Bộ
3. Kinh Các Lễ Uposatha, Tăng Chi Bộ
4.Pháp Cú, kệ số 35

(Tạp chí Văn Hóa Phật Giáo)

Nguồn: HoaVoUu

Hoa cúc dại tháng sáu 2014 (63)

ĐỂ SỐNG HẠNH PHÚC

Tác giả: ÐatLaiLatMa
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển – 17/6/2012

Tôi nói đến việc đạt đến đời sống hạnh phúc như thế nào trong phạm vi thế tục. Tôi thật vui mừng có cơ hội để nói chuyện với nhiều người ở đây. Trước tiên tôi muốn cảm ơn ban tổ chức cũng như ông thống đốc từ lúc đến phi trường và mỗi ngày ông đã hiện diện để nói lời chào mừng tôi và cho thấy một gương mặt với nụ cười mĩm và qua đôi mắt là một thái độ vô cùng thân mật. Nên tôi rất cảm kích. Một người bạn lớn của tôi là một nhà khoa học, một nhà khoa học Hoa Kỳ, tên ông ta hình như là Livingstone, bây giờ không còn với chúng ta nữa. Ông nói với tôi, khi chúng ta gặp gở những người với tình cảm thật nồng ấm, thì con ngươi của mắt, trở nên to hơn. Và ông ta nói với tôi rằng, bất cứ khi nào ông ta gặp tôi, đôi mắt ông ta mở lớn ra. Và thật sự vào lúc ấy ông đề cập với tôi rằng, chỉ có hai người, một là tôi và thứ hai là vợ ông ta (mọi người cười), làm con ngươi ông nở rộng ra (cười). Nên kinh nghiệm tương tự khi ông ta gặp tôi, cũng như ngài thống đốc khi gặp tôi con ngươi của ngài chắc cũng nở to ra. (cười).

Thế nào đi nữa tôi cũng rất vui mừng và cảm ơn rất nhiều. Bất cứ vị trí nào trong hội trường này hãy nhìn vào những con người hay thấy, người nào cũng thật sự biểu lộ tình cảm nồng ấm nên tôi rất cảm kích. Cảm ơn rất nhiều.

Tôi muốn đề cập với quý vị rằng, trước nhất chủ nghĩa thế tục, khi tôi sử dụng chữ chủ nghĩa thế tục, theo truyền thống Ấn Độ, vì một số người bạn Hồi Giáo của tôi, một số Ki Tô, họ cảm thấy chữ chủ nghĩa thế tục hơi tiêu cực cho tôn giáo của họ. Nên họ không thích dùng chữ ấy. Và rồi thì cũng có những người tin tưởng hay có những người có quan điểm rằng bất cứ đạo đức phải căn cứ trên niềm tin tôn giáo.

Theo truyền thống Ấn Độ, như chính trong hiến pháp đương đại căn cứ trên chủ nghĩa thế tục, điều ấy không có nghĩa là bài xích tôn giáo. Một cách tổng quát mà nói, tư tưởng công cộng Ấn Độ rất đượm màu tôn giáo. Và những người lãnh đạo Ấn Độ hiện đại như Thánh Gandhi, và những người khác đã viết nên hiến pháp Ấn Độ, họ là những người với tâm tư rất đậm tính tôn giáo. Theo sự thấu hiểu của Ấn Độ, chủ nghĩa thế tục có nghĩa là tôn trọng tất cả mọi tôn giáo, không liên hệ tôn giáo này hay tôn giáo nọ. Và một trong những điều nổi bật nhất là, trên ba nghìn năm qua, chủ nghĩa thế tục ấy cũng tôn trọng quyền của những người không tôn giáo, không tín ngưỡng. Nên điều ấy là rất cởi mở trong tư duy. Do vậy khi tôi dùng chữ chủ nghĩa thế tục, là điều quý vị nên hiểu là rất cởi mở đến tất cả mọi người, mọi tôn giáo, tôn trọng sâu xa và đồng thời cũng nhìn nhận quyền của những người không tín ngưỡng.

Tôi muốn hỏi những người đang nghe hôm nay, ai đã nghe buổi giảng hôm qua xin đưa tay lên.

Tôi giải thích cách này, như những con người, ngay cả những con vật hay côn trùng đều khao khát sự hòa bình hơn, tĩnh lặng hơn, không muốn bất cứ sự quấy rầy nào. Và mọi người có quyền để đạt đến một đời sống hạnh phúc, mọi người có quyền vượt thắng bất cứ sự quấy rầy hay rắc rối nào hay bất cứ sự khó khăn nào. Điều ấy là phổ quát, không cần phải khảo sát, không cần phải thí nghiệm, không cần luận lý chứng minh. Tự nhiên là như thế.

Nhằm để đạt được mục tiêu ấy, mọi chúng sinh, thú vật và con người chúng ta cố gắng để đạt đến điều ấy. Nhưng rồi thì điều quan trọng là phương pháp. Cách để đạt được mục tiêu ấy phải là thực tiển. Bất cứ sự tiếp cận không thực tiển nào đều thất bại để đạt đến mục tiêu ấy. Chúng ta có thể thấy một số thú vật cố gắng để thoát khỏi hiểm nguy nhưng đi vào một phương hướng sai lạc và chúng ta cảm thấy, ô thương hại thế nào ấy. Chúng cố gắng để thoát khỏi nổi nguy hiểm nhưng thật sự lại đối mặt với hiểm họa ấy. Tương tự thế, con người chúng ta có óc thông minh kỳ diệu, chúng ta có khả năng hơn để đi theo sự tiếp cận thực tiển đấy là sự phân tích mọi sự việc, nghiên cứu sự kiện. Rồi thì sự tỉnh thức tốt đẹp hơn nên so sánh thì sự tiếp cận của chúng ta là sự tiếp cận thực tiển chúng ta không thấy sự việc trong mức độ trước mắt mà là trong trình độ lâu dài. Nên chúng ta có khả năng ấy và tôi nghĩ một số thú vật cũng thế, một sự mở rộng nào đó, nhưng chúng ta thuận lợi hơn, tỉnh thức hơn với những quan tâm lâu dài. Do đó,đôi khi chúng ta tự nguyện hy sinh những lợi ích tức thời để đạt đến mục tiêu lâu dài, điều này biểu lộ sự tiếp cận thực tiển được minh chứng.

Con người chúng ta do bởi sự thông minh chúng ta cố gắng để đạt đến những lợi ích về lâu về dài hơn là những thứ tức thời. Cảm nhận kinh nghiệm chính yếu là tạm thời, thí dụ, thấy những hình ảnh, hay một nơi nào đấy, hay những khách du lịch thăm viếng những nơi khác nhau, thấy những phong tục khác nhau, những lối sống khác nhau, hay những con người khác nhau, thì có những cảm nhận vui thích khác nhau chủ yếu là từ đôi mắt. Âm nhạc từ đôi tai.

Tôi có một người bạn là tài xế ở Delhi, ông ta thường nói chuyện về những trận thể theo tường cầu cricket. Khi tôi hỏi, ông ngủ được mấy giờ, vào những đêm có cricket hay tối qua. Ông nói, bốn tiếng. Vì đến nửa đêm đôi mắt vẫn dán chặc vào màn ảnh truyền hình. Nên đôi khi tôi đùa với ông, như vậy là sai, tốt hơn ông nên ngủ một giấc ngon lành hơn là cứ xem cricket cho đến nửa đêm hay hơn nữa.

Nên đấy là một loại kinh nghiệm vui thú nào đó qua đôi mắt. Rồi thì âm nhạc qua đôi tai. Thức ăn qua miệng. Mùi hương qua lỗ mũi. Chạm xúc của thân thể. Những kinh nghiệm qua các giác quan. Cho đến khi mà nó vẫn ở đấy, chúng ta có những cảm nhận vui thích. Khi chúng chấm dứt chỉ còn là ký ức. Về mặt khác những kinh nghiệm trong trình độ tinh thần không tùy thuộc vào những trải nghiệm chúng sẽduy trì lâu hơn.

Nên thật là quan trọng để tỉnh thức hay nhận ra những kinh nghiệm vui sướng hay đau đớn, những kinh nghiệm ở hai trình độ, một thuần là cảm giác, cái kia là trình độ tinh thần.

Tôi nghĩ là xã hội, xã hội hiện đại, chúng ta quá miệt mài ở trình độ cảm giác của giác quan đấy là tại sao chúng ta quá quan tâm đến chủ nghĩa vật chất. Quá gắn bó với những giá trị vật chất nên đôi khi chúng ta hờ hửng với những giá trị của trình độ tinh thần.

Một lần nọ nhiều năm trước đây, ở Bá Linh, đối diện với gian phòng tôi ngụ, thì phía bên kia là một hộp đêm (night club). Vào lúc 7:30 tối, tôi sắp đi ngủ, tôi có thể thấy ở bên ngoài ánh đèn màu xanh, đỏ,vàng,… rồi thì tôi nghe tiếng nhạc từng tưng, từng tưng,từng tưng,… rồi đến nửa đêm tôi thức dậy, tôi vẫn nghe tiếng nhạc từng tưng, từng tưng,từng tưng,… Rồi đến sáng hôm sau khoảng 4 giờ sáng, tôi thức dậy vẫn âm thanh ấy từng tưng, từng tưng,từng tưng,…như thế đấy (cười). Tôi nghĩ là tất cả năng lượng của họ mãi mê theo đuổi những cảm nghiệm ấy. Tôi nghĩ là ngày kế tiếp là họ hoàn toàn kiệt lực. (Cười)

Mới đây tôi gặp một gia đình người Ấn Độ trẻ với cha mẹ và những đứa con trai, con gái, với những câu chuyện ngẫu nhiên. Sau đó tôi đề cập trong ba thập niên qua tôi chỉ nghe đài BBC để biết tin tức mà không cần phải xem truyền hình. Những người gia đình ấy nói, thế thì ngài phải buồn chán lắm vì không nhìn vào truyền hình. Điều ấy có nghĩa là họ đã dành nhiều thời gian để xem truyền hình. Thế nào đi nữa, lối sống ngày nay, ở Hoa Kỳ, hay một cách phổ quát, đặc biệt là trẻ em xem truyền hình quá nhiều. Tôi nghĩ như vậy làm tổn hại việc phát triển khả năng tinh thần của chúng ta để phân tích hay tập trung hay làm sắc bén tâm thức, chỉ nhìn mà không suy nghĩ. Cho nên rất hữu ích để hoạt động hơn ở trình độ tinh thần chứ không chỉ dựa vào những giác quan (mắt, tay, mũi, lưỡi,…)

Tôi nghĩ đến một điểm khác thật sự quấy rầy đến cảm xúc không phải ở trình độ giác quan, giác quan tiếp nhận nhưng ở trình độ thật sự tạo ra cảm xúc quấy rầy chính yếu đến từ trình độ tinh thần. Nhằm để đạt đến một đời sống hạnh phúc tâm thức tĩnh lặng là rất căn bản. Vì nguồn gốc quấy rầy đến từ trình độ tinh thần nên chúng ta phải đối phó với trình độ tinh thần.

Do vậy, trước nhất phải chú ý đến những giá trị nội tại, thế giới bên trong. Thế giới bên ngoài chúng ta biết khá rõ, nhưng thế giới nội tại, ngay cả hộp sọ này, một không gian nhỏ, nhưng chúng ta khám phá không gian ngoại tại, nhưng dường như chúng ta chưa thấu rõ bao hàm tất cả thế giới bên trong hộp sọ này ở đây. Nên thật quan trọng để nghĩ nhiều hơn về tâm thức chúng ta về chính cảm xúc.

Một ngày nào đấy tôi đã đề cập, một khi cảm xúc phát triển, rồi thì cố gắng xem xét cảm xúc, bằng một tâm thức khác (tâm quán sát tâm hay bằng sự chánh niệm). Rồi thì một cách đặc thù với khuynh hướng làm cho cảm xúc tiêu cực hạ xuống. Thí dụ khi chúng ta cảm thấy giận dữ mãnh liệt thì hãy cố gắng nhìn vào tâm giận dữ, và cố gắng, chúng ta có khả năng ấy, cố gắng quán sát nhìn vào tâm ưu thế với giận dữ. Ngay khi chúng ta nhìn vào nó, cường độ của sự giận dữ hạ xuống, như thế đấy. Thật là hấp dẫn để nhìn trở vào tâm.

Bây giờ chúng ta đang ở vào thế kỷ 21. Thế kỷ 20, tôi nghĩ là thế kỷ quan trọng nhất của nhân loại rất nhiều phát minh trong lãnh vực của khoa học kỷ thuật, nên tri thức của chúng ta về tự nhiên, tôi nghĩ là phát triển cao độ, phát triển rất nhiều, cũng như sự hiểu biết tăng trưởng rất nhiều. Tuy nhiên thế kỷ đó đã trở thành thế kỷ của những cuộc tắm máu, tôi nghĩ là những người Âu châu của các bạn đã trải nghiệm điều này, cha mẹ các bạn, ông bà các bạn đã trải nghiệm những vụ tàn phá khủng khiếp, sợ hãi, đau đớn. Nên theo lịch sử,thế kỷ 20 có hơn 200 triệu người đã bị chết vì bạo động. Bạo động khủng khiếp kể cả vũ khí nguyên tử.

Nếu những sự bạo động kinh khiếp ấy thật sự tạo nên một trật tự mới, một cơ chế tốt đẹp thì chúng ta có thể phán xét một cách tích cực về những sự bạo động ấy. Ngay cả vào đầu thế kỷ này, một số hoàn cảnh không lành mạnh ở Iraq, Afghanistan,… cũng bao gồm cả khủng bố, tất cả những điều ấy là triệu chứng của các sai lầm quá khứ, hay những sơ suất của quá khứ. Và cũng trong thế hệ trẻ, có một số sự bất an, đôi khi là giết chóc,… đây là những triệu chứng của sai lầm hay cẩu thả của quá khứ. Chủ yếu là do quá chú trọng về những thứ ngoại tại. Nên bây giờ, chúng ta phải nghĩ một cách rộng rãi bao quát hơn kể cả những giá trị nội tại chứ không chỉ những giá trị vật chất ngoại tại.

Và dĩ nhiên tôi nghĩ là khoảng cách giữa người giàu và nghèo. Sự phát triển vật chất ngoại tại chính nó thì tốt, nhưng đôi khi làm gia tăng khoảng cách giữa giàu và nghèo. Tôi nghĩ ở đây tốt đẹp hơn, không cách biệt quá. Nhiều quốc gia khác, như năm ngoái tôi viếng thăm Mexico, Argentina và rồi đến Brazil, và bộ mặt của nó khi tôi thuyết giảng tôi hỏi thính chúng, khoảng cách giữa người giàu và nghèo như thế nào, nhỏ hay lớn, thính chúng mọi chỗ đều giang hai tay ra, khoảng cách rất lớn. Tôi nghĩ ở đây (Áo Quốc) tốt hơn, khoảng cách nhỏ thôi, khoảng một gang tay. Khoảng cách giữa người nghèo và giàu, một gang tay hay một sãi tay? Lớn hay nhỏ? Okay không hề gì! Rồi thì mức độ tham nhũng. Cả ở Mỹ, khi tôi hỏi, mức độ tham nhũng lớn hay nhỏ. Thính chúng giang hai tay ra. Vậy thì Áo Quốc này, mức độ tham nhũng thế nào? (mọi người cười).

Những quốc gia dân chủ, luật pháp, chế độ pháp trị, tự do thông tin, tự do ngôn luận, những tệ nạn vẫn xảy ra. Tại sao? Là qua sự thiếu vắng kỷ luật tự giác. Là qua sự thiếu vắng nguyên tắc đạo đức.

Tôi thường nói với một người bạn Ấn Độ rằng, Ấn Độ và người Ấn Độ so sánh tổng quát thi là một quốc gia tâm linh rất dồi dào, những người tâm tư rất tôn giáo nhưng có quá nhiều tham nhũng ở đấy. Nên tôi thường nói với người bạn Ấn của tôi rằng, mỗi người hay mỗi gia đình có sự tham nhũng, gia đình nào cũng có trong nhà họ một số tượng chư thần linh nam nữ (gods và goddesses), mỗi buổi sáng cúng dường bông hoa, nhang đèn và cầu nguyện. Tôi đùa với họ rằng, Ô sự cầu nguyện của bạn đến chư thần linh nam nữ của bạn gần như mong cầu sự tham nhũng của bạn thành công (cười).

Cho nên một đàng là tâm hồn tôn giáo, nhưng không ngại gì việc tham nhũng. Thật đáng buồn. Nên những người này, đúng là những người tín ngưỡng, nhưng không đủ nghiêm túc để quán chiếu về những nguyên tắc đạo đức hay nói một cách khác là không có sự sợ hãi đến thần linh.

Một vài năm trước, trong một cuộc thảo luận với những nhà chuyên môn và học giả, cố vấn của một công ty quốc gia, và chúng tôi đàm đạo về sự tham nhũng ngay cả trong công ty ấy. Những sở hữu của họ không trong sáng lắm. Rồi thì tôi hỏi, Ô những người này đáng lẻ phải là những người biết sợ hãi thần thánh. Sau đó ông trả lời, những người đó đến nhà thờ cầu nguyện đến Thượng Đế, nhưng họ không thật sự nghiêm túc, không thật sự ngoan đạo, hay không chân thành. Nếu chân thành thì cả cuộc sống của họ phải theo lời dạy của Thượng Đế hay thánh thần là yêu thương, toại nguyện, tự giác.

Nên bây giờ, việc phán xét những điều này khoảng cách giữa người giàu và nghèo, thiếu chú ý đến môi trường, chỉ tiêu thụ mọi thứ,… Do vậy, những điều này rõ ràng cho thấy rằng chúng ta cần nổ lực hơn trong viêc thúc đẩyđạo đức luân lý. Với tính đạo đức hơn, tính tự giác sẽ hiện hữu. Tính tự giác có nghĩa là không phải do mệnh lệnh, không phải do sợ hãi nhưng là tự nguyện hay tôi không nên làm việc này, hay biết việc này sẽ có cơ đem đến một sự sai lạc, hay mang đến bất công. Nhưng biết rằng nếu tôi gây ra việc này sẽ đem đến một kết quả như vậy,như vậy,… thế là kỷ luật tự giác. Do vậy, chúng ta thật sự cần nổ lực hơn để xây dựng một tinh thần đạo đức hơn. Khác đi thì hoàn cảnh hiện tại sẽ tiếp tục, dân số sẽ gia tăng, đạo đức suy đồi, và rắc rối sẽ phát triển thêm, có thể sẽ xảy ra như vậy.

Thế nên, bây giờ là lúc đã đến nhằm để xây dựng thế kỷ này là thế kỷ hạnh phúc, thế kỷ hòa bình, thế kỷ từ bi, và những việc này được căn cứ trên nguyên tắc đạo đức (vổ tay).

Bây giờ, càng đạo đức hơn càng tác động đến lòng nhiệt tình hơn. Nhiệt tình là lòng quan tâm đến lợi ích của người khác. Xem người khác giống như ta, thật sự là những người anh chị em loài người. Họ cũng muốn hạnh phúc và không muốn khổ đau. Chúng ta cũng là những động vật, hạnh phúc của mỗi cá nhân cũng lệ thuộc trên tất cả những người còn lại. Nên cộng đồng còn lại hay những người khác cũng chính là niềm hạnh phúc của chúng ta. Do vậy, chăm nom đến đời sống của họ, một khi mà loại suy nghĩ như vậy hiện hữu thì không có chỗ cho việc bóc lột, bắt nạt, lừa gạt, dối trá vì chúng ta tôn trọng họ, chúng ta phát lòng cảm nhận quan tâm đến sự cát tượng của họ.

Nên lòng nhiệt tình hay việc quan tâm đến sự cát tường của kẻ khác là vấn đề then chốt. Điều này đã được trang bị từ lúc ấu thơ, ngay lúc chúng ta ra đời, chúng ta tiếp nhận tình cảm tối đa từ bà mẹ của chúng ta. Nhân tố vật lý này (chỉ vào thân thể), tình cảm đã hiện hữu ở đấy cho thấy rằng chúng ta tồn tại nhờ tình cảm con người, chủ yếu là tình cảm của bà mẹ, với sửa của bà mẹ. Nên kinh nghiệm ấy thật sự hòa tan thâm nhập trong gene, trong thân thể, trong máu của chúng ta. Tất cả chúng ta đã sẳn có hạt giống ấy rồi. Câu hỏi là. Những người trẻ đây, tôi nghĩ họ đã quan tâm đến tình cảm của người khác hơn là tiền bạc của họ, quyền lực của họ, quá khứ xã hội của họ, họ không quan tâm những thứ này.

Khi chúng ta lớn lên, như vị thống đốc của chúng ta đây, có nhiều tóc trắng hơn, đường bệ hơn (cười). Chính tôi cũng già hơn. Rồi thì ngoại trừ chúng ta chú ý, không thì nhân tố thân thể này [với tình cảm từ bà mẹ]bị ngủ quên. Sự thông minh đôi khi mang đến những thứ khác. Ta nghĩ, nếu ta có thứ ấy thì ta được gì. Nếu không có gì lợi lạc thì chúng ta quên lãng. Rồi thì thái độ vị kỷ, tôi ,tôi, tôi trở nên quan trọng hơn. Cái kia là cái tôi lớn hơn. Đấy cũng là nhũng lạm, đấy cũng là rắc rối.

Nếu chúng ta có một cái chúng tôi lớn hơn, cái chúng tôi của một cộng đồng; một cái chúng tôi lớn hơn của một quốc gia; một cái chúng tôi lớn hơn của cả cộng đồng Âu châu, một cái chúng tôi lớn hơn của cộng đồng nhân loại, bảy tỉ người chúng tôi thì sẽ không có chỗ cho sự phân biệt giàu nghèo. Tôn trọng tất cả cùng là loài người. Cùng là anh chị em. Chúng ta nên có quyền bình đẳng. Chúng ta nên có sự chia sẻ bình đẳng. Trong lãnh vực kinh tế, trong lãnh vực tôn giáo,…, nếu chúng ta phát triển sự quan tâm đến quyền lợi của người khác. Đấy là nhân tố chìa khóa. (vổ tay). Điều này không cần đến phần của tôn giáo. Không. Tôn giáo là vấn đề cá nhân, chuyện riêng tư. Nhưng điều này quan tâm đến nhân loại, chúng ta sinh ra trong cách này (vổ tay), cả cuộc đời còn lại của chúng ta phải nên ở trong cảm giác mạnh mẽ này thì sự tự giác sẽ hiện hữu. Tôn trọng người khác, không lừa gạt, không bóc lột…

Và rồi xa hơn, sức khỏe thân thể cũng rất quan trọng, sự nhiệt tình này. Bởi vì, một số nhà khoa học nói rằng, sự sợ hãi liên tục, và giận dữ, thù hận thật sự xói mòn hệ thống miễn nhiễm của chúng ta. Nên khi sợ hãi hiện diện, thái độ tự kỷ chỉ là tôi, tôi, tôi nên nhìn về phía này, hơi sợ hãi; thái độ ấy làm cho chúng ta xa cách với người khác; nhìn về phía nọ, sợ hãi; phía khác, không tin tưởng đưa đến kết quả cô độc. Một cảm giác bất an điều này mang đến sợ hãi, sợ hãi diễn dịch thành thất vọng, giận dữ… Nên một khi sự cởi mở, quan tâm đến sự cát tường của người khác, chăm sóc đến lợi ích của người khác thì càng tự tin hơn thì chúng ta có thể hành động trung thực, chân thật mở ra một sự trong sáng. Điều ấy làm giảm thiểu sợ hãi. Nhìn về phía này, ô, những anh chị em con người. Nhìn về phía này, những anh chị em loài người.

Thảng hoặc, khi chúng ta biểu lộ thái độ thân thiện, người đối diện không như vậy, tiêu cực, thì trường hợp ấy chúng ta có quyền hành động phù hợp với hoàn cảnh này. Có phải thế không? (cười) Nhưng trước tiên chúng ta phải chìa tay ra, và hầu hết mọi trường hợp, kể cả thú vật, nếu chúng ta cởi mở, nhiệt tình, một cảm nhận quan tâm đối với họ, họ cũng sẽ đáp ứng lại. Tính nhân bản chúng ta đột nhiên bừng dậy.

Trong một vài trường hợp, tôi nghĩ là ở Đức Quốc, khi tôi đi ngang qua những con đường trên xe của tôi, tôi chỉ nở những nụ cười với mọi người, một ngày nọ, một người phụ nữ trẻ tuổi đi ngang qua, tôi nở nụ cười thông thường, nhưng người phụ nữ ấy cảm thấy nghi ngờ, chau mày (cười). Nên nụ cười của tôi thay vì làm sảng khoái người khác lại làm sợ hãi vì sự nghi ngờ. Thế là tôi quay về phía khác (mọi người cười).

Cho nên, tôi thật sự tin rằng lòng nhiệt tình, trái tim tình cảm là điều chúng ta học từ những bà mẹ của chúng ta, điều này phải giữ gìn cho đến lúc chết. Một cách vật lý mà nói thân thể chúng ta cũng được lợi lạc. Thân thể chúng ta trở nên mạnh mẽ hơn, khỏe mạnh hơn.

Trong một cuộc gặp gở của những nhà khoa học, chúng tôi có châm ngôn: “Tâm hồn khỏe mạnh, thân thể khỏe mạnh” (Một tinh thần khỏe mạnh trong một thân thể cường tráng). Tâm hồn khỏe mạnh rất quan hệ với một thân thể khỏe mạnh. Rồi thì vào lúc khởi đầu, tôi thật sự đề cập rằng, “Nhằm để mang đến một sự tiếp cận thực tiển, chúng ta trước nhất phải biết thực tại một cách trọn vẹn. Nhằm để tri nhận thực tại một cách trọn vẹn, tâm thức chúng ta phải tĩnh lặng. Nếu tâm tư chúng ta liên hệ quá nhiều với cảm xúc, thế thì tâm hồn chúng ta trở nên thành kiến, qua cách ấy chúng ta không thể thấy mọi việc một cách khách quan. Cho nên nhằm để tiến hành việc khảo sát một cách khách quan, tâm tư chúng ta phải trở nên tĩnh lặng, phải là trung tính.” Nên ở đây, lòng nhiệt tình có một vai trò quan trọng. Vì vậy, trong lãnh vực giáo dục cũng thế, tôi nghĩ sinh viên liên tục sợ hãi, một cách không thoải mái, điều ấy tôi nghĩ là một chướng ngại cho việc học tập. Tươi mát, sôi nổi, hăng hái, vui vẻ thì chúng ta có thể học hỏi tốt đẹp hơn.

Nên tôi nghĩ ở mỗi trình độ của đời sống con người, một nhà chuyên môn, một giáo sư, … tâm tư chúng ta cởi mở hơn, tĩnh lặng hơn, thì chúng ta có thể tiến hành việc làm của chúng ta khoa học, chính trị, kinh tế,… hay mọi thứ, rồi thì sự thành công rất lệ thuộc trên sự tiếp cận thực tiển. Sự tiếp cận thực tiển xét cho cùng lại tác động cho sự tĩnh lặng của tâm hồn, lòng tự tin, sự cởi mở. Đấy là đạo đức thế tục bất chấp người ấy là một người có tín ngưỡng hay không tín ngưỡng. Hãy nghĩ thêm về những điều này. (vổ tay).

Xin chân thành cảm ơn. Đây là hạnh phúc chân thật. Những điều này thật sự có lợi cho tôi. Nếu quý vị thấy có ý nghĩa, lợi lạc thì hãy cố gắng thực tập, còn nếu thấy không có lợi ích gì thì hãy quên đi (mọi người cười).

Hết giờ cho hỏi đáp rồi! Một hay hai câu hỏi. Một câu hỏi nào đấy chứ!

HỎI: Tôi làm việc ở một Casino Âu châu. Khi người ta ghiền đánh bạc, thua nhiều tiền rồi thì nhiều năng lượng tiêu cực phát ra. Công ty của tôi phải làm gì với điều này? Và cá nhân tôi phải làm gì với việc này?

ĐÁP: Tôi thật sự không biết (mọi người cười và vổ tay). Thật sự thì những năng lượng tiêu cực ấy tự phát ra.

Source: thuvienhoasen.

002 (315)

Thuyết Vô Ngã

TKN. Thích Nữ Chân Liễu

Trong cuộc đờì này, con nguời thường sống vớí vọng tâm, vọng ngã, trôi lån theo cảnh trần đối đãi thị phi, thưong ghét, thay đổi tùy duyên tốt xâú bên ngoài, cho nên tâm luôn luôn bất an, phìên não, khổ đau. Phât day là: con người nên biết sống vớí chân tâm, chân ngã, không dính mắc, không trôi lån, dù cảnh trần đờì vô thường, biến đổi, tâm vâñ an nhiên tự tại. Ðó chính là ý nghiã thâm sâu cuã thuyết vô ngã, hay Duy Ngã Ðộc Tôn.

Ðức Phât day: Ai còn tham luyến là còn ngã ái chấp đây là cuã tôi, ngã mạn chấp đây là tôi, ngã kiến chấp đây là tự ngã cuã tôi, thờì có dao động. Ai không tham luyến, thờì không dao động. Ai không dao động, thờì được khinh an. Ai được khinh an thờì không còn chấp. Ai không còn chấp thờì không có đến và đi. Ai không có đến và đi, thờì không có sanh diệt. Ai không còn sanh diệt, thời không có đờì này và đờì sau, không có giữa hai đờì, đây là sự đoạn tận khổ đau.

( Niết Bàn – Tưong Ưng Bộ kinh )
( khinh an: là tâm nhẹ nhàng, an lạc, khi buông bõ các phìên não, các cô′ chấp, thoát ra khỏi vòng tục lụy của thê′ gian.)

Chấp ngã, ham múôn, dục vong càng to, càng xa Niết Bàn. Ðức Phật là bậc Ðại Từ, Ðại Bi, Ðại Trí, Ðại Luc, xa rờì tất cã ác pháp, sáng suốt phá tan vô minh phìên não, vượt qua đối đãi ( nhi nguyên ), đạt được Niết Bàn tich tịnh. Người phàm trần thường chấp đúng sai, hðn thua, thưong ghét, tốt xâú, khen chê, thật giã, nên bị chi phối, trói buộc, mê mờ, vô minh luân hồi sanh tử mãi, không thoát ra được.

Cũng chính vì cái bãn ngã ràng buộc mà chúng sanh chìm nổi trong biển khổ luân hồi. Ðức Phât dạy pháp quán vô ngã, nhìn cho thâú đáo “Tứ Ðại” Ðêù do duyên hợp thành, chưa diệt được cái ta tự tôn tự  đại, thì còn đau khổ, còn sanh tử. Chuyển mê khai ngộ, ly khổ đắc lạc, bước ra khỏi lục đạo là giãi thoát sanh tử. Theo ” Lý duyên khởi ” thì:

♦ Cái này có, thì cái kia có  (có ham muốn ích kỷ, thì có đau khô’ tranh chấp )

♦ Cái này sanh, thì cái kia sanh (có trói buộc tham ái, thì có thù oán sân hận)

♦ Cái này không thì cái kia cũng không ( không có tham dục, không có ưu bi khổ não )

♦ Cái này diệt, thì cái kia cũng diệt ( bãn ngã diệt, vô minh sinh tử diệt ).

Vô minh sanh tử diệt, đạt cứu cánh Niết Bàn.

10385549_430266700455762_7380440537852826044_n

Hoa Sen: tượng trưng cho ” bản tâm thanh tịnh” của Chư Phật và của mỗi người.

004 (35)

Chuyển đến trang:  1  2  3  4  5  6  7