Recent Pages: 1 2 3 4 5 6 7
NHỮNG ĐIỀU CƠ BẢN VỀ PHẬT HỌC
Tác giả: Nguyên Minh
.
NHỮNG ĐIỀU CƠ BẢN VỀ PHẬT HỌC – BÀI 2 – PHÁP
PHÁP:
Pháp là một thuật ngữ Phật học có rất nhiều nghĩa và có thể làm cho ta hiểu sai ý nghĩa của kinh văn.
PHÁP trong Phật – Pháp – Tăng có hai nghĩa:
– Pháp là lời dạy của Đức Phật hoặc kinh giáo, giáo pháp.
– Pháp là Sự Thật, Thực tại hiện tiền, chân lý, bản thể của thực tại, là cái đang là.
PHÁP trong Sắc – Thanh – Hương – Vị – Xúc – Pháp là đối tượng của Ý. Khi ta nhìn một vật, một sự việc ta lưu nó vào bộ nhớ nó trở thành một pháp và trở thành đối tượng của ý. Ở đây Pháp có nghĩa là những ý tưởng, những quan niệm, khái niệm.
PHÁP mà Đức Phật khai thị là thực tại hiện tiền phi thời gian.
PHÁP cũng có nghĩa là nguyên lý của vũ trụ, luật duyên khởi.
PHÁP cũng có nghĩa là lời nói, thái độ, hành xử, trạng thái tâm… (thiện pháp, bất thiện pháp).
PHÁP = Nhậm trì tự tánh, quỉ sanh vật giải = giữ gìn cái tự tánh, giữ gìn cái tánh chất riêng, để từ đó người ta có thể biết, phân biệt được vật này khác với vật kia. (bất cứ cái gì mà nó có thể giữ được hình dáng và tính chất riêng của nó, để khi nhìn vào có thể phân biệt được với vật khác, thì gọi là Pháp.)
Pháp cũng có nghĩa là: hiện tượng, trạng thái, yếu tố cơ bản… (xin xem phần phụ lục “Tất cả đều là dhamma” của Buddhadasa Bhikkhu)
Pháp có hai loại: Pháp vô vi, Pháp hữu vi.
– Pháp vô vi: Niết bàn
– Pháp hữu vi có hai loại: Hữu vi khách quan do duyên sinh một cách tự nhiên không phải là nguyên nhân của khổ; và hữu vi chủ quan do tư ý tư dục tạo tác là nguyên nhân gây đau khổ.
Trích từ “Phật giáo truyền thống đại thừa” của GESH KELSANG GYATSO:
“Pháp là những lời dạy của Đức Phật nhưng nghĩa thật của Pháp là những thực chứng nội tâm trực tiếp che chở cho chúng sinh thoát khỏi khổ đau.”
Danh từ Pháp tiếng Phạn là “dharma” nghĩa đen là “cái gì gìn giữ”. Chính Pháp đã giữ gìn chúng sinh thoát khỏi khổ đau, lo sợ, hiểm nguy. Tuy thế muốn thoát khỏi những vấn đề và đau khổ của chính mình thì ta cần phải nổ lực lớn lao để đạt được sự chứng ngộ Pháp.
Joseph Goldstein:
“Chữ Dharma hay Dhamma, là một danh từ rất rộng nghĩa, nó bao trùm chứa đựng hết tất cả. Một trong những nghĩa của Dhamma là Chân lý, là Pháp, tự tánh của vạn vật. Nó cũng có nghĩa là những yếu tố đặc biệt của một hiện tượng và những luật tự nhiên điều khiển hiện tượng ấy. Dhamma cũng có nghĩa là những lời dạy của đức Phật và con đường tu tập đưa đến giác ngộ. Vì thế cho nên danh từ Dhamma bao trùm hết tất cả. Mọi vật trên cuộc đời này đều có thể là Dhamma, vì mọi vật phải tuân theo định luật tự nhiên của chính nó.”
BUDDHADASA BHIKKHU: Tất cả đều là Dhamma (Hoàng Phong dịch)
Đến đây chúng ta sẽ tìm hiểu xem tại sao tất cả mọi hiện tượng đều được gọi là “dhamma”. Trước khi nói lên chữ này thì quý vị cũng phải hiểu thật tường tận đấy là gì. Chữ dhamma có nghĩa là tất cả những gì hiện hữu. Khi Đức Phật nói đến “tất cả dhamma” thì đấy có nghĩa là tất cả mọi hiện tượng, không có một ngoại lệ nào cả, dù chúng thuộc lãnh vực vật chất, tinh thần hay tâm linh. Nếu như có một thứ gì nằm ra bên ngoài cả ba thể loại ấy thì nó cũng vẫn thuộc vào cách định nghĩa của thuật ngữ “tất cả dhamma”.
Tôi mong rằng quý vị có thể nắm vững được cách định nghĩa này: là mọi “thế giới” của những vật thể vật chất, có nghĩa là bao gồm tất cả các “lãnh vực” của những vật thể vật chất, tất cả đều là dhamma. Một tâm thức ý thức được tất cả các thế giới ấy thì tự nó cũng là một dhamma. Nếu tâm thức và thế giới tiếp xúc với nhau thì sự tiếp xúc đó cũng là một dhamma. Nếu sự tiếp xúc đó làm phát sinh ra các hậu quả chẳng hạn như tình thương yêu, hận thù, ghét bỏ, sợ hãi, kể cả trí tuệ và sự quán thấy trong sáng về mọi sự vật đúng là như thế…, thì tất cả các hình thức phản ứng ấy cũng đều là các dhamma. Dù cho chúng đúng hay sai, tốt hay xấu, thì tất cả cũng đều là dhamma. Nếu trí tuệ làm phát sinh ra những thứ hiểu biết khác nhau trong nội tâm thì những thứ ấy cũng gọi là dhamma. Nếu các thứ hiểu biết ấy đưa đến việc giữ giới, thiền định, hay trí tuệ hay bất cứ một phép tu tập nào, thì việc tu tập ấy cũng là một dhamma. Đối với các kết quả mang lại sự tu tập ấy – dù được biểu trưng bằng các thuật ngữ như “sự thực hiện được Con Đường, quả mang lại từ Con Đường hay là nibbana (niết-bàn)” – thì tất cả cũng là các dhamma.
Tóm lại là tất cả những thứ ấy đều là dhamma. Thuật ngữ này bao hàm tất cả, gồm từ thế giới của các vật thể vật chất cho đến các kết quả mang lại từ sự tu tập Dhamma (Đạo Pháp), sự thực hiện được Con Đường, quả mang lại từ Con Đường. Như đã nói đến trên đây, nếu nhìn thấy được mỗi sự vật ấy một cách thật minh bạch thì cũng có nghĩa là nhìn thấy “tất cả các sự vật” và cũng sẽ hiểu được rằng đối với bất cứ gì dù là do chính Đức Phật giảng dạy thì cũng không được nắm bắt hay xem đấy là các đối tượng của sự bám víu. Cái thân xác này không phải là một đối tượng để nắm bắt hay bám víu, đối với tâm thức thì lại càng không nên nắm bắt và bám víu bởi vì đấy là một thứ ảo giác khác to lớn hơn nhiều. Vì thế Đức Phật cũng đã từng nói, nếu nhất định cứ một mực khăng khăng bám víu vào một thứ gì đó để xem đấy là “cái tôi” thì tốt hơn nên bám víu vào thân xác bởi vì nó biến đổi chậm chạp hơn, và nó cũng không lừa phỉnh mình tệ hại như tâm thức.
Chữ “tâm thức” trong trường hợp trên đây không mang cùng một ý nghĩa với chữ “tâm thức” khi được dùng để chỉ định “tâm thức” là một với “tánh không”. Chữ “tâm thức” trên chỉ có nghĩa là “tâm thần”, tức là “tâm thức” hiểu theo cách thông thường. Sự tiếp xúc giữa thể dạng tâm thức ấy và thế giới sẽ làm phát sinh ra mọi thứ cảm tính như yêu thương, hận thù, giận dữ, v.v… Đấy là các thể loại dhamma càng không nên bám víu hơn so với các thứ dhamma thuộc thân xác, bởi vì chúng là những thứ ảo giác phát sinh từ sự mù quáng của một tâm thức u mê. Nắm bắt và bám víu vào những thứ ấy thật vô cùng nguy hiểm.
Đức Phật có nói rằng ngay cả sự chú tâm giúp quán thấy được sự thật của mọi sự vật cũng không được xem là căn nguyên của sự nắm bắt và bám víu, bởi vì đấy cũng chỉ là một thành phần của thiên nhiên. Bám víu vào đấy cũng chỉ là cách tạo ra thêm những ý nghĩ sai lầm: người ta có thể sẽ tưởng tượng ra một con người nào đó có thể đạt được một khả năng trí tuệ như thế, và để tin rằng đấy là cái trí tuệ “của tôi”. Sự bám víu sẽ làm cho tâm thức trở nên nặng nề và chao đảo dưới sự chi phối của mọi biến động xảy ra, và từ đó sẽ sinh ra dukkha (khổ đau). Chỉ nên đơn giản xem sự hiểu biết là sự hiểu biết. Nếu dại dột bám víu vào đấy để xem là cái “của tôi”, thì nó sẽ lôi kéo theo nhiều thứ bám víu khác, chẳng hạn như các thứ “nghi thức lễ bái và các hình thức lễ lạc”, khiến cho chúng ta càng thêm khổ sở mà cũng chẳng biết là tại sao
Tu tập Dhamma cũng thế: chỉ cần biết đơn giản tu tập thế thôi. Kết quả tự nó sẽ tương xứng với mức độ tu tập của mình – đấy cũng chỉ là một sự thật của thiên nhiên. Nếu nắm bắt và bám víu vào sự tu tập ấy để xem là “cái tôi” hay cái “của tôi” thì lại càng dễ khiến mình rơi vào sự sai lầm nặng nề hơn, tức là tạo ra thêm cho mình một “cái tôi” hoàn toàn vô căn cứ, và do đó sẽ mang lại khổ đau không kém gì như khi bám víu vào những thứ thật thô thiển khác như sự thèm khát tính dục chẳng hạn.
Đối với việc thực hiện được Con Đường, tiếp nhận được quả của Con Đường và niết-bàn, thì tất cả cũng chỉ là dhamma, là thành phần của thiên nhiên. Chúng là như thế thì cứ xem chúng là như thế. Ngay cả tánh không cũng chỉ là thành phần của thiên nhiên. Nếu nắm bắt nó và bám víu vào nó, thì đấy sẽ là một thứ nibbana không đích thật, một thứ tánh không sai lầm, bởi vì đối với nibbana đích thật tức tánh không đích thật thì không thể nào nắm bắt được nó. Chính vì thế nên mỗi khi nắm bắt nibbana hay tánh không và xem đấy như là “cái tôi” hay cái “của tôi” thì tức khắc và đồng thời cũng sẽ tự tách rời mình ra khỏi những thứ ấy.
Tất cả những gì trình bày trên đây cho thấy tuyệt đối không có bất cứ gì khác hơn là dhamma. Thuật ngữ dhamma đồng nghĩa với chữ “thiên nhiên”. Cách giải thích này khá phù hợp với nghĩa từ chương của chữ dhamma, bởi vì ý nghĩa nguyên thủy của chữ này là “một sự vật có thể tự duy trì lấy nó “. Các dhamma được phân chia thành hai thể loại khác nhau: một thể loại luôn chuyển động và một thể loại thì không. Thể loại gồm các dhamma thường xuyên chuyển động hàm chứa một động lực thúc đẩy chúng nhằm để duy trì chúng trong chính sự chuyển động đó của chúng, nói cách khác thì chính chúng là dòng chảy của sự đổi thay (vô thường). Thể loại gồm các dhamma không chuyển động thì không hàm chứa các yếu tố gây ra sự chuyển động đó, đấy là nibbana hay là tánh không.
Tóm lại, có hai thể loại dhamma: một thể loại gồm các sự vật luôn chuyển động và một thể loại thì không, cả hai đều đơn giản chỉ là dhamma, tức là các sự vật tự duy trì được trong một thể dạng nào. Tất cả đều là thiên nhiên (hay tự nhiên), đơn giản chỉ là các thành phần của thiên nhiên. Do đó nếu đấy chỉ đơn giản là các dhamma thì làm thế nào mà chúng có thể trở thành “cái tôi” hay là cái “của tôi” được? Trong bối cảnh đó dhamma cũng sẽ chỉ có nghĩa là “thiên nhiên”, đương nhiên là như thế. Người ta cũng có thể gọi dhamma là tathata dhamma là như thế thì cứ là như thế, không thể khác hơn được. Chỉ toàn là dhamma. “Tất cả mọi thứ” đều có nghĩa là dhamma: không có một thứ dhamma nào lại không hàm chứa trong “tất cả mọi sự vật”.
Trái lại Dhamma đích thật thì dù thuộc vào lãnh vực nào, cấp bậc nào hay thể loại nào thì cũng đều nhất thiết là tánh không, hoàn toàn trống không về “cái ngã”. Tóm lại chúng ta phải nhìn thấy tánh không hàm chứa trong tất cả mọi sự vật, hoặc nói một cách đơn giản hơn là trong tất cả các dhamma. Theo phép suy luận lô-gic thì chúng ta sẽ có các phương trình như sau:
Tất cả mọi sự vật = đều là dhamma
Tất cả mọi sự vật = đều là tánh không
Các dhamma = đều là tánh không
Người ta có thể trình bày khái niệm trên đây bằng nhiều cách khác nhau thế nhưng điều thật sự quan trọng và cần phải hiểu thì cũng không có gì khác hơn là chính bản chất của sự trống không. Chúng ta không được bám víu vào bất cứ thứ gì để xem đấy là “cái tôi” và cái “của tôi”. Đấy là cách giúp chúng ta nhận thấy một cách minh bạch tánh không là bản chất của tất cả mọi sự vật. Chỉ khi nào loại bỏ được tất cả mọi thứ tư duy sai lầm thì khi đó chúng ta mới có thể nhận thấy được cái bản chất ấy. Nếu muốn quán thấy được tánh không thì cần phải có panna, là một thể dạng hiểu biết tinh khiết đã loại bỏ được mọi thứ u mê tâm thần.
Các thứ dhamma của vô minh
Ngoài ra cũng có thêm một thứ dhamma nữa gọi là dhamma của vô minh hay của sự hiểu biết sai lầm, tức là những phản ứng phát sinh từ sự tiếp xúc giữa tâm thức và thế giới vật chất. Như đã được trình bày trên đây, khi dhamma tâm thức tiếp xúc vớidhamma mang tính cách vật chất thì tức khắc một phản ứng sẽ phát sinh dưới hình thức giác cảm, và từ giác cảm đó sẽ đưa đến hoặc là không đưa đến một xúc cảm. Tiếp theo đó, người ta có thể sẽ ngả theo hoặc con đường của sự u mê hoặc con đường của sự quán thấy sáng suốt, tất cả đều do sự tác động của các điều kiện bên ngoài và bản chất thuộc vào thể loại dhamma đó. Dhamma của vô minh thì cũng chẳng phải là gì khác hơn là dhamma của sự nắm bắt và bám víu vào “cái tôi” và cái “của tôi”, là những thứ hoàn toàn mang tính cách ảo giác. Vì thế cũng nên hiểu đấy cũng chỉ là một thứ dhamma. Bản chất đích thật của nó cũng chỉ là tánh không.
Vô minh là tánh không, sự quán thấy minh bạch hay nibbana cũng là tánh không; tất cả cũng chỉ là dhamma. Nếu nhìn những thứ ấy đúng như thế thì chúng ta cũng sẽ hiểu được rằng chúng hoàn toàn trống không về cái ngã. Tuy rằng các dhamma trong lãnh vực của vô minh vẫn là “một” với tánh không, thế nhưng chúng vẫn còn tiếp tục làm phát sinh ra ảo giác về “cái tôi”. Do đó chúng ta phải thật cảnh giác đối với cácdhamma của sự nắm bắt và bám víu cũng như của sự quán thấy sai lầm về mọi sự vật – tất cả đều gồm chung trong thuật ngữ “tất cả mọi sự vật”.
Nếu chúng ta quán thấy được một cách minh bạch tất cả mọi sự vật thì sự bám víu mang đầy u mê sẽ không thể phát sinh ra được. Ngược lại nếu sự quán thấy của chúng ta thiếu minh bạch và chúng ta chỉ biết nhắm mắt chạy theo các bản năng thú tính của mình một cách dại dột và sai lầm, thì đấy cũng chẳng khác gì như tự mở cửa ngày càng rộng hơn để đón rước các thứ dhamma của vô minh.
Nắm bắt và bám víu là một thứ di sản lưu truyền trong con người chúng ta từ muôn thuở. Nếu quan sát và phân tích thật kỹ thì chúng ta cũng sẽ thấy rằng những người chung quanh chúng ta chẳng những luôn tìm cách khuyên dạy chúng ta bắt chước theo họ – dù vô tình hay cố ý – để cùng bước với họ vào con đường vô minh mà hơn nữa, họ còn chỉ dạy cho chúng ta cách thức phải bám víu vào “cái tôi” và cái “của tôi” như thế nào.
Họ không bao giờ tập cho chúng ta biết nhìn vào bản chất vô ngã của mọi sự vật. Trẻ con chẳng những không bao giờ được chỉ dạy về những thứ ấy, mà hơn thế nữa, người lớn còn luôn tìm cách đối thoại với chúng dưới tư cách là những cá thể hoàn toàn biệt lập. Một đứa bé mới sinh ra đời chưa có cảm tính về một “cái tôi” biệt lập trong tâm thức của nó, sau đó thì nó mới dần dần nhận biết được cảm tính ấy xuyên qua môi trường chung quanh nó. Khi mới mở mắt chào đời và bắt đầu ý thức được một thứ gì đó thì người lớn tập cho nó bám víu vào đấy: đây là cha “của nó”, mẹ “của nó”, gian nhà “của nó”, thức ăn “của nó”; kể cả cái đĩa đựng thức ăn cũng là “của nó” và không ai được sử dụng cái đĩa ấy “của nó”! Quá trình vận hành vượt khỏi sự ý thức của mình – hay sự hình thành của một “cái tôi” trong tri thức và sự phát triển của nó – là một sự diễn tiến theo đúng với các quy luật chi phối nó. Trái lại, cảm tính về sự vắng mặt của “cái tôi” thì lại không bao giờ hiển hiện lên, do đó, suốt trong khoảng thời gian từ khi còn bé cho đến lúc trưởng thành, một cá thể tiếp tục chất chứa đầy những sự bám víu và những thứ u mê tâm thần do chính những sự bám víu ấy gây ra. Đối với cá thể ấy “cái tôi” chính là sự sống và sự sống cũng chính là “cái tôi”. Thế nhưng khi mà bản năng của sự bám víu vào “cái tôi” bắt đầu được xem như là một sự sống bình thường với tất cả ý nghĩa của nó, thì sự sống đó cũng sẽ bị buộc chặt vào dukkha (khổ đau). Cái tôi đó trở nên thật nặng nề và ngột ngạt, bế tắc, rát bỏng và thật đớn đau – tóm lại là một cuộc sống hàm chứa mọi triệu chứng của dukkha.
Tóm lại, mỗi khi xảy ra sự nắm bắt và bám víu vào bất cứ gì, kể cả những thứ tốt đẹp nhất thì tức khắc sẽ sinh ra khổ đau. Nếu nhìn theo cách đó thì những gì mà thiên hạ cho là tốt thì thật ra cũng chỉ là một sự sai lầm hay là mang tính cách tệ hại bởi vì “cái tốt” cũng là một hình thức của “dukkha” – một thứ dukkha đã được thuần hóa, thế nhưng đấy vẫn là dukkha, chẳng qua bởi vì tâm thức không trống không và luôn bị bấn loạn. Chỉ khi nào tâm thức trống không và vượt lên trên cái tốt cũng như cái xấu thì khi đó mới loại bỏ được dukkha.
Thật vậy, khái niệm quan trọng nhất trong giáo huấn Phật Giáo có thể tóm lược thật chính xác bằng câu sau đây: “Tuyệt đối không được bám víu vào bất cứ gì cả” (“sabbe dhamma nalam abhinivesaya”). Câu này cũng có nghĩa là phải loại bỏ hoàn toàn mọi sự nắm bắt và bám víu vào mọi sự vật để xem đấy là “cái tôi” và cái “của tôi”. Thật ra cũng chỉ có thế, nào có gì khó hiểu đâu!
Khi nào chúng ta vẫn còn nhận diện mình qua những sự bám víu, và khi những sự bám víu ấy đã trở thành một với chính mình, thì khi đó chúng ta cũng sẽ không còn làm được bất cứ gì nữa. Vậy khi tâm thức mình đã rơi vào tình trạng đó thì ai sẽ có thể giúp mình được? Câu trả lời sẽ là: chỉ có tâm thức mình mới có thể giúp được mình mà thôi. Như đã trình bày trên đây là không có bất cứ thứ gì không phải là dhamma: sự sai lầm là một dhamma, sự thật cũng là một dhamma, dukkha (khổ đau) là một dhamma, sự đình chỉ của dukkha (sự giải thoát) là một dhamma, phương tiện làm đình chỉdukkha cũng là dhamma, tâm thức là dhamma, thân xác là dhamma. Vì thế khi tất cả chỉ là dhamma thì giải pháp nhất thiết cũng sẽ phải nằm trong chính tâm thức, dựa vào một cách vận hành thích nghi với nó.
Xứng đáng hay không xứng đáng thì cũng đều tùy thuộc vào chính chúng ta. Nếu sự tiếp xúc với thế giới mang lại trí tuệ thì đấy là điều xứng đáng. Nếu sự tiếp xúc với thế giới mang lại sự đần độn và các ý nghĩ sai lầm thì đấy là điều không xứng đáng.
Nếu quan sát mọi sự vật thật cẩn thận thì chúng ta sẽ nhận thấy là tất cả mọi con người khi sinh ra đều ngang hàng nhau: ấy là mỗi người đều có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân xác và tâm thức, mỗi người đều cảm nhận được hình tướng, âm thanh, mùi, vị, các sự nhận biết của xúc giác và các đối tượng tâm thần. Mỗi người trong chúng ta đều có dịp tiếp xúc với các thứ ấy, và sự tiếp xúc đó xảy ra giống nhau đối với tất cả mọi người. Vậy thì tại sao lại có sự phân cách giữa những người bước theo con đường đần độn, không xứng đáng, xấu xa và những người bước theo con đường của trí tuệ, của sự xứng đáng và những điều tốt lành?
Các dhamma xấu vẫn có một khía cạnh tích cực. Thật tế chúng là một sự che chở đích thật cho mọi người nếu nhìn theo một khía cạnh nào đó, chẳng hạn như khi đau khổ thì đấy là một dịp để rút tỉa thêm cho mình một bài học. Một đứa trẻ bị bỏng khi đưa tay vào lửa thì nó sẽ hiểu rằng phải cẩn thận hơn. Đối với các vật thể vật chất thì tương đối dễ buông bỏ, thế nhưng đối với sự nắm bắt, bám víu, thèm muốn, ghét bỏ và những thứ tư duy sai lầm thì trong số hầu hết chúng ta không mấy ai ý thức được là mình đang đút tay vào cái đống than hồng ấy. Chẳng những thế, chúng ta lại còn xem đấy là những gì thật tuyệt hảo và đáng để cho mình thèm muốn. Đấy cũng có nghĩa là mình chẳng hề rút tỉa được một bài học nào cả.
Chỉ có một phương thuốc chữa trị duy nhất là phải làm thế nào để có thể ý thức được bản chất đích thật của những thứ dhamma ấy để hiểu rằng chúng chỉ là một đống than hồng mà chúng ta không được nắm bắt và bám víu vào đấy. Đấy chính là con đường của trí tuệ, của sự học hỏi kinh nghiệm, để hiểu rằng mỗi khi nắm bắt bất cứ một thứ gì và xem đấy là “cái tôi” hay cái “của tôi”, thì ngọn lửa sẽ bùng lên ngay. Không phải đơn giản là một ngọn lửa làm cho bỏng tay mà đúng hơn là một ngọn lửa thiêu rụi cả con tim lẫn tâm thức của mình. Đôi khi nó đã ngún sâu đến độ khiến chúng ta không ý thức được đấy là một ngọn lửa đang bùng cháy và chúng ta cứ thế mà tiếp tục lao mình vào đống than hồng của vòng luân chuyển giữa sự sinh và cái chết. Đấy là ngọn lửa thuộc loại nóng bỏng nhất, nóng hơn cả một cái lò điện. Đấy là trường hợp có thể xảy ra cho chúng ta, nếu chúng ta không học được bài học của một đứa bé bị bỏng là không nên đưa tay vào lửa.
Đức Phật đã từng giảng rằng chỉ khi nào tâm thức quán thấy được hậu quả của khổ đau do sự nắm bắt và bám víu mang lại thì khi đó nó mới hiểu rằng phải nên buông bỏ. Vì thế vấn đề then chốt sẽ là: chúng ta có nhìn thấy được hậu quả khổ đau do sự nắm bắt và bám víu mang lại hay không? Nếu không thì chúng ta chưa hề biết buông bỏ là gì, và nếu chưa buông bỏ thì chúng ta sẽ không trống không. Trong một lần thuyết giảng khác Đức Phật có nói rằng mỗi khi quán thấy được tánh không thì người ta sẽ tìm thấy sự toại nguyện trong thế giới của nibbana. Chỉ khi nào người ta bắt đầu quán thấy được sự phi-hiện-hữu của cái ngã thì khi đó tâm thức mới có thể hiểu được rằng chỉ nên tìm sự toại nguyện trong thể dạng của nibbana mà thôi. Tất cả những gì nhận biết được qua trung gian của các giác quan và tâm thức thì đều được gọi chung là “lãnh vực” giác cảm. Có lẽ cũng nên mượn dịp này để nêu lên rằng nibbana cũng chỉ là một thứ “lãnh vực” bởi vì nó cũng chỉ đơn giản là một đối tượng của sự hiểu biết. Phải thật hết sức đần độn mới không nhận ra được điều này! Chúng ta sẽ chỉ có thể nhận biết được nó khi nào chính mình đã cảm nhận được sự trống không của mình, bởi vì khi đã buông bỏ được sự nắm bắt và bám víu thì khi đó chúng ta mới sẽ tìm thấy sự toại nguyện trong “thế giới” của nibbana. Thế nhưng như tôi đã nói đến trên đây, điều ấy thật hết sức khó bởi vì cuộc sống của chúng ta luôn bị tràn ngập bởi mọi sự bám víu vào các sự vật, và cho đến khi nào sự bám víu ấy không giảm xuống thì cũng sẽ không có sự trống không, và nếu không có sự trống không thì cũng sẽ không thể nào có sự toại nguyện trong thế giới của nibbana được.
Chúng ta có thể kiểm chứng sự kiện này khi nhìn vào các tôn giáo khác. Thật vậy khái niệm về thể dạng không-bám-víu vào “cái tôi” và cái “của tôi” không hề có trong các tôn giáo khác – tại sao lại như thế? Bởi vì các tôn giáo ấy đều nêu lên một “cái tôi” và nhất thiết phải bám víu vào đấy. Vì nhận thấy chẳng có gì tỏ ra sai lầm nên người ta xem đấy là đúng, do đó việc đạt được Cái Ngã sẽ trở thành mục đích của tôn giáo . Đối với giáo huấn Phật Giáo thì hoàn toàn ngược lại, sự bám víu vào “cái tôi” nhất thiết phải được xem như là một sự quán nhận sai lầm về mọi sự vật, một sự lầm lẫn hoàn toàn đần độn của sự nhận thức, do đó chủ đích tu tập của Phật Giáo là phải loại bỏ bất cứ một khái niệm nào đại loại như thế. Thật vậy, giáo huấn về vô-ngã chỉ có trong Phật Giáo. Khác với các tín ngưỡng chủ trương có một cái ngã hầu để bám víu vào đấy hoặc là phải đạt được nó, chúng ta chủ trương phải loại bỏ hoàn toàn ý nghĩ về sự hiện hữu của cái ngã hầu để có thể cảm nhận được thể dạng vô-ngã, một thể dạng hoàn toàn trống không về cái ngã của tất cả mọi sự vật.
Tóm lại chỉ có Phật Giáo là nói đến vô-ngã. Sự hiểu biết và nhận thức về khái niệm đó chỉ có thể phát hiện nơi những người đã được học hỏi rằng: tất cả mọi sự vật đều vô-ngã và nhất thiết không được bám víu vào bất cứ gì. Nếu đã được học hỏi rằng cái ngã thật sự hiện hữu và phải bám víu vào đấy thì sau này quả thật sẽ không còn phương cách nào có thể giúp thực hiện được thể dạng phi-hiện-hữu của cái ngã ấy nữa.
Thật vậy, khi nào đã nhận biết được là lửa có thể làm bỏng tay thì chúng ta mới ý thức được một cách thật minh bạch sự nguy hiểm của mọi sự vật làm nguyên-nhân-cội-rễ khiến ngọn lửa bùng lên – đấy là các ngọn lửa của sự thèm muốn, ghét bỏ và vô minh, của sự nắm bắt và bám víu, nhờ đó dần dần chúng ta sẽ chán ngấy những thứ ấy và mong cầu loại bỏ được chúng, hầu có thể giúp mình đủ sức để buông bỏ và không còn muốn làm cho các ngọn lửa bùng lên nữa.
BUDDHADASA BHIKKHU: Chìa khóa vào chơn lý thiên nhiên (Thiện Nhựt dịch)
Chánh Pháp (Dhamma).
Danh từ thứ nhì cần cứu xét đến là Chánh Pháp (Pali: Dhamma, Sancrit:Dharma). Tại cấp bực nhi đồng (thấp nhứt) của ngôn ngữ thông thường hằng ngày, chữ đó được hiểu như là các quyển sách đã ghi chép các Kinh điển, được sắp xếp trên kệ sách. Hoặc nó có thể được hiểu như là lời nói được dùng để giải thích rộng rãi về lời Giáo huấn của Đức Phật. Đấy là ý nghĩa của danh từ Chánh Pháp trong ngôn ngữ hằng ngày, ngôn ngữ của những kẻ còn mê mờ, chưa thấy được Chánh Pháp chơn thật.
Theo nghĩa của ngôn ngữ trong Chánh Pháp, chữ Chánh Pháp chính là một với Bực Đại Giác, và giống với Bực Đại giác. “Kẻ nào thấy Chánh Pháp, kẻ ấy thấy được Như Lai (Tathàgata).” Đây chính là Chánh Pháp chơn thật. Theo nghĩa ngữ nguyên trong tiếng Pali, chữ Chánh pháp được dùng để chỉ đến tất cả những gì phức tạp có dính dấp với việc tạo thành điều mà ta gọi là Thiên Nhiên. Vì chẳng có đủ thời giờ để bàn luận trong chi tiết, tôi chỉ xin nêu ra các điểm chánh yếu. Danh từ Pháp (dhamma) bao gồm các nghĩa sau đây:
1. Chính Thiên Nhiên;
2. Qui luật của Thiên Nhiên;
3. Nhiệm vụ của mọi chúng sanh là phải hành động dựa đúng theo các qui luật Tự nhiên
4. Các lợi lạc đạt được từ các hành động phù hợp theo Qui luật của Thiên Nhiên.
Đó là cả một giai tầng rộng rãi gồm các ý nghĩa mà chữ Pháp bao trùm. Nó chẳng chỉ nói đến riêng về các sách vở, các thủ bản lá bối, hoặc các lời nói của diễn giả. Chữ Pháp dùng trong ngôn ngữ của Chánh Pháp trỏ vào các sự việc phi vật chất. Chánh Pháp bao hàm tất cả, nghĩa nó thật sâu xa; trùm chứa hết muôn sự vật; ý nghĩa của nó trong vài trường hợp thì khó hiểu, mà tại vài nơi cũng chẳng quá gay go để nhận thức ra được.
(Ghi chép: Nguyên Minh TVHUNG)
Nguồn: Trung Tâm Hộ Tông
Cuộc Sống và Những Giáo Lý Căn Bản của Phật Giáo
TÁC GIẢ: NHƯ PHAN
Ðề cập đến tôn giáo, con người thường nghĩ đến vấn đề tín ngưỡng, hai thuật ngữ này thường đi đôi với nhau. Tuy nhiên không phải Tôn giáo nào cũng có những quan niệm tín ngưỡng như nhau.
Với Ðạo Phật, tín ngưỡng bao hàm ý nghĩa đức tin, và đức tin ở đây không phải là giáo điều, mang tính áp đặt trong quá trình học và hành đạo. “Ðức Tin” ở đạo Phật bao hàm ý nghĩa trí tuệ và phải được chứng thực qua quá trình kinh nghiệm. Danh từ Phật Pháp như chúng ta đã biết, đó là cách thức, phương pháp, con đường để đạt đến “Phật”, một thuật ngữ chỉ có thể ra đời khi Ðạo sư Gotama đã chứng ngộ trên đường hành đạo. Vì vậy, Phật pháp không phải là một học thuyết mang tính lý luận, mà là tất cả những gì thực tiễn con người có thể vận dụng một cách linh hoạt trong đời sống hàng ngày. Ðiều này thể hiện rõ qua hình ảnh “bánh xe pháp luân”. Ðây chính là biểu tượng của tiến trình hành động để khẳng định, chứng thực những điều Phật dạy qua nhân cách sống, và hệ thống kinh điển Ngài để lại sau ngày nhập diệt.
Nghiên cứu giáo lý đạo Phật người ta thường cho rằng giáo lý Phật giáo mang tính khế cơ. Ðiều này không phải ngẫu nhiên hoặc không có cơ sở. Nền tảng vững chãi cho nhận định trên là tính thực tiễn và ứng dụng của tiến bộ tâm thức và hành động hướng nội mà mọi người có thể tự thực hành.
Thật vậy, toàn bộ giáo lý Phật giáo là khối lượng lớn những phương pháp linh hoạt, thích hợp với nhiều mặt, nhiều lúc, nhiều nơi, và nhất là những căn tánh khác nhau của con người có thể đi từ tự giác, giác tha và cuối cùng đạt đến giác hạnh viên mãn. Qua giáo lý mang tính khế cơ của đạo Phật, chúng ta thấy không có lời dạy nào của Ngài mà không bao hàm hai điểm lớn: “Xây dựng trên căn bản của con người” và ” Dẫn đến giác ngộ tối thượng cho mỗi nguời”.
1- Duyên Khởi
2- Tứ thánh đế
3- Bát chánh đạo.
Giáo lý căn bản hàng đầu của Phật giáo, thể hiện vũ trụ quan, thế giới quan, nhân sinh quan. Duyên khởi là sự nương tựa vào nhau mà hình thành, phát triển, tồn tại lẫn hủy diệt. Quá trình ấy, duyên là tiền đề, là điều kiện tiên quyết. Bất cứ hiện tượng nào trong vũ trụ, vật chất hay tinh thần đều do tập hợp các nhân duyên mà thành, nương tựa vào nhau để tồn tại, không có sự vật nào tự mình sinh ra, độc lập tồn tại. Giáo lý duyên khởi được triển khai thành bốn loại duyên căn bản :
– Nhân Duyên: Duyên gần gũi nhất, điều kiện gần gũi nhất, làm cơ sở, cái này là tiền đề để sinh ra cái khác. Chẳng hạn nguyên liệu và sản phẩm, hạt lúa và cây lúa, tấm ván và cái bàn,….
– Tăng Thượng Duyên: Cái trợ lực cho nhân duyên như nước, phân bón cho cây lúa, người thợ và dụng cụ để tạo từ nguyên liệu tấm ván thành cái bàn.
– Sở Duyên Duyên: Những điều kiện làm đối tượng cho quá trình nhận thức, tức là cái có, cái hiện hữu: Cái bàn, Cây lúa.
– Vô Gián Duyên: Sự không gián đoạn cần thiết cho mọi phát triển, trưởng thành và tồn tại của vật chất, vũ trụ, nhân sinh.
Kinh A Hàm, Phật dạy: “Vì cái này có nên cái kia có, vì cái này không nên cái kia không, vì cái này sinh nên cái kia sinh, vì cái này diệt nên cái kia diệt”. Luật Nhân quả trong quan niệm đạo Phật cũng được quan sát theo góc độ nguyên tắc duyên sinh vừa nêu trên.
Là giáo lý căn bản thứ hai của đạo Phật, đề cập trong nhiều kinh điển, nhất là trong kinh Chuyển Pháp Luân. Giáo lý này được xác lập trên cơ sở nhân quả với hình thức song đối trong quá trình biện chứng tác thành của nó. Tìm hiểu Tứ Diệu Ðế chúng ta thấy nổi bật hai phương diện lớn:
– Sự hiện diện khổ đau và nguyên nhân tạo thành đau khổ.
– Niềm an lạc khi khổ đau đã diệt và con đường dẫn đến an lạc.
Theo luật nhân quả cuả đạo Phật, 4 chân lý: Khổ, Tập, Diệt, Ðạo không phải lả giáo điều siêu hình, mà là một nguyên lý có thể kiểm nghiệm trong bất cứ trường hợp nào – hoặc cảnh ngộ riêng tư xảy ra trong thực tế đời thường của cuộc sống. Chẳng hạn đói nghèo và nguyên nhân của đói nghèo, niềm vui khi cuộc sống hạnh phúc, đủ đầy và con đường đạt đến niềm vui ấy. Trong lần thuyết giảng đầu tiên tại vườn Lộc Uyển nhằm độ 5 vị Tỳ Kheo, Phật dạy: “Ðây là Khổ cần phải biết. Ðây là Tập cần phải đoạn. Ðây là Diệt cần phải chứng. Ðây là Ðạo cần phải tu”. Lời dạy trên tất yếu phải được triển khai chi tiết, cụ thể , và điểm xuất phát của nó cũng được xây dựng trên cơ sở Bát Chánh Ðạo, mà chánh tri kiến là 1 trong 8 nguyên tắc của hành động chân chính. Thâm hiểu Tứ Ðế bằng tri thức, con người sẽ xác định cho mình một quan điểm sống. Về mặt này con người không nên tự cho phép tâm mình dẫn dắt hành động trong mơ hồ của thế giới lý luận suông, mà phải đặt tâm đối diện với sự thực để đoạn trừ cái nguyên nhân khổ đau bằng con đường tu tập (đạo), nhằm đạt đến mục đích tối hậu – Giải thoát.
Giáo lý căn bản thứ ba của Phật giáo. Ðó là con đường của 8 nguyên tắc hành động chân chính, 8 nguyên tắc nầy tồn tại trong mối quan hệ nhân quả và gắn bó mật thiết với đời sống tu tập hàng ngày :
1. Thấy đúng.
2. Nghĩ đúng.
3. Nói đúng.
4. Hành động đúng.
5. Sống nghề nghiệp chân chính.
6. Cần mẫn và nỗ lực chân chính.
7. Khởi niệm chân chính.
8. Thiền định chân chính.
Nếu đem 8 nguyên tắc hành động chân chính trên vận dụng vào đời sống hàng ngày, chúng ta thấy chúng được xác lập trên cơ sở luật nhân quả, hỗ tương; nguyên tắc nầy vừa là kết quả, đồng thời là nguyên nhân tạo nên nguyên tắc khác. Ðiều quan trọng nhất khi tìm hiểu giáo lý này, là làm thế nào để thông hiểu nó – tức là nhận biết được cái “đúng”, cái “chân chính” của mỗi một nguyên tắc. Theo lời Phật dạy: Tất cả không phải chỉ có thể đạt được trên mặt lý thuyết, sách vở, hay phương pháp suy luận bằng tri thức vốn có, mà cần phải thực hành trong quá trình sống vẹn toàn của chữ tâm.
Ba đạo lý căn bản của đạo Phật được tỉnh lược nêu trên, chính là nền tảng cho tất cả tông phái Phật giáo Nguyên thủy cũng như Ðại thừa ở Việt Nam, cũng như các nước trên thế giới. Có thể xem đó là cỗ xe lớn dẫn đường cho quá trình hành động và cứu độ bản thân và kẻ khác. Xây dựng bản thân tư giác ngộ chân lý, đem chân lý ấy giác ngộ cho kẻ khác, và cuối cùng đạt đến sự nghiệp giác ngộ tràn đầy. Việc làm ấy phù hơp với tinh thần đạo Phật – lấy con người làm gốc, mọi nỗ lực phấn đấu đều nhằm đạt tới mục đích cuối cùng phục vụ đời sống vật chất và tinh thần của con người.
Ðọc những mẩu chuyện tiền thân của Ðức Phật, chúng ta tìm về con người trần thế của Ngài, và sẽ hiểu hơn về nguồn cội. Sinh thời ngài không bao giờ tự cho mình là đấng thần minh, hay một vị cứu tinh siêu phàm nào, mà chỉ là người trần thế đơn thuần đã giác ngộ. Chính nhân cách sống trong cuộc đời trần thế của Ngài dạy trong kinh điển. Ðạo Phật chủ trương: Con người hoàn toàn chịu trách nhiệm về bản thân và xã hội mình đang sống, và có thể thay đổi về bản thân và hoàn cảnh sống theo ý muốn. Ðức Phật dạy: “Con người phải tự cứu lấy mình” và con đường tự cứu là “Tự mình thắp đuốc lên mà đi.”
Thực hành đạo Phật là thực hành về nhân cách sống và thâm hiểu kinh điển, giáo lý, nhằm đạt đến nhận thức đầy đủ những điều trong đời sống thực tại, xây dựng cho mình một lối sống tốt đẹp lấy tình thương làm nguyên tắc cao nhất của đaọ làm người, và cuối cùng rèn luyện ý chí để thành tựu đại nguyện giúp đời, xây dựng đất nước.
NGUỒN ĐẠO PHẬT NGÀY NAY
3 ĐIỀU GIÁ TRỊ
* Ba điều trong đời không được đánh mất: .- Sự thanh thản – Hy vọng – Lòng trung thực
* Ba thứ có giá trị nhất trong đời: – Tình yêu – Lòng tự tin – Bạn bè
* Ba thứ trong đời không bao giờ bền vững được: – Giấc mơ – Thành công – Tài sản
* Ba điều làm nên giá trị một con người: – Siêng năng – Chân thành – Thành đạt
* Ba điều trong đời làm hỏng một con người: – Rượu – Lòng tự cao – Sự giận dữ
* Ba điều giúp ta hướng thượng suốt đời: – Học Phật – Học Pháp – Học Tăng.
Nguồn: Sưu Tầm
BƯỚC ĐẦU HỌC PHẬT
Tác giả : HT. Thích Thanh Từ
Chúng tôi viết quyển sách này cho những người mới bắt đầu học Phật. Bước đầu tuy tầm thường song không kém phần quan trọng, nếu bước đầu đi sai, những bước sau khó mà đúng được. Người học Phật khi mới vào đạo không hiểu đúng tinh thần Phật giáo, về sau sẽ hỏng cả một đời tu. Người có trách nhiệm hướng dẫn không thể xem thường kẻ mới học, cần phải xây dựng có một căn bản vững chắc, đi đúng đường hướng của Phật dạy. Hiểu Phật giáo một cách đúng đắn, mới mong thành một Phật tử chân chánh.
Vì muốn chỉ lẽ chánh tà để người mới vào đạo khỏi lầm lẫn, nên chúng tôi mạnh dạn chỉ thẳng những điều sai lầm hiện có trong Phật giáo. Làm như thế, không có nghĩa chúng tôi muốn vạch lưng chỉ thẹo cho kẻ khác thấy, mà cốt yếu muốn gầy dựng lại một nếp sống Phật giáo phù hợp với hiện tại và mai sau. Chúng ta sống trong thời khoa học, cần phải truyền bá Phật giáo thích ứng với chân lý gần với sự thật. Bản chất của Phật giáo đã là chân lý, là sự thật, chúng ta đừng làm méo mó khiến kẻ bàng quan hiểu lầm Phật giáo. Với nhiệt tình, chúng tôi một bề đả phá những mê tín đang ẩn náu trong Phật giáo, để cho bộ mặt Phật giáo trắng sạch hơn, không còn những thứ lọ nhơ làm lem luốc. Tinh thần tồi tà phụ chánh, chúng tôi chịu trách nhiệm những gì chúng tôi đã nói và hoàn toàn chịu trách nhiệm với những ai không hài lòng phiền trách chúng tôi.
Kính ghiThích Thanh Từ
#22 – Chữ TỨC trong đạo Phật
Người đời và những người mới học đạo đều nhìn sự vật với tính cách cố định. Nói ác hẳn là ác, nói thiện hẳn là thiện, phải hẳn là phải, quấy hẳn là quấy, có hẳn là có, không hẳn là không… họ không hiểu nổi lối nói “cái này tức là cái kia“, trong kinh điển Ðại thừa. Họ cho lối nói này ỡm ờ mờ ám không chấp nhận được. Song với tinh thần Ðại thừa Phật giáo, nhìn sự vật thấy rõ không có bản chất cố định, không ngoài nhau. Vì thế, trong kinh nói “Sắc tức là Không, Không tức là Sắc”, hay “Phiền não tức Bồ-đề”, hoặc “Sanh tử tức Niết-bàn”. Chỉ một chữ “Tức” làm sáng tỏ nghĩa không cố định, không ngoài nhau của các Pháp.
SẮC TỨC LÀ KHÔNG, KHÔNG TỨC LÀ SẮC
Câu này xuất phát từ kinh Bát-nhã. Chữ Sắc ở đây là chỉ cho Sắc uẩn. Dưới con mắt đức Phật, thân này do năm uẩn kết hợp thành. Sắc uẩn là phần vật chất; thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn là phần tinh thần. Chẳng riêng gì sắc uẩn tức là không, mà thọ, tưởng, hành, thức cũng như thế. Bởi vì bản chất mọi uẩn không tự có, do duyên hòa hợp thành. Ðã do nhân duyên hòa hợp thì làm sao cố định được. Trước khi nhân duyên hòa hợp nó không có, sau khi nhân duyên ly tán, nó cũng không, chính khi duyên đang hợp phân tích ra cũng không có thực thể của nó. Ví như nắm tay, trước khi co năm ngón lại, không có nắm tay, sau khi buông năm ngón ra không có nắm tay, đang khi co năm ngón lại nếu phân tích từng ngón cũng không có nắm tay. Thế thì, nắm tay chỉ là cái tên tạm gọi khi co năm ngón lại, chớ không có thực thể cố định của nắm tay. Sắc uẩn không cố định nên nói “sắc tức là không”; không, khi đủ duyên hợp thành sắc nên nói “không tức là sắc”, sắc chẳng ngoài tính chất không cố định, không cố định chẳng ngoài sắc, nên nói “sắc tức là không, không tức là sắc”! Thấu triệt lý các pháp tùy duyên biến chuyển, không đứng yên, không tự thành, là thông suốt câu “sắc tức là không, không tức là sắc”.
PHIỀN NÃO TỨC BỒ-ÐỀ
Câu này bàng bạc trong các kinh Ðại thừa. Phiền não là si mê bực bội đau khổ. Bồ-đề là giác ngộ yên tĩnh an vui. Hai thứ bản chất trái ngược nhau, tại sao lại nói cái này tức cái kia? Bởi phiền não bản chất không cố định, khi biết chuyển hoặc biết xả liền thành Bồ-đề. Cái động không ngoài cái tịnh, dừng động tức là tịnh. Cái sáng không ngoài cái tối, hết tối tức là sáng. Chúng ta cứ quen chạy tìm cái giác ở ngoài cái mê, tìm an vui ngoài đau khổ. Sự thật không phải thế, hết mê tức là giác, dứt khổ tức là vui. Thiền sư Tư Nghiệp người Trung Hoa, khi chưa xuất gia làm nghề hàng thịt. Một hôm mổ heo, bỗng dưng ông thức tỉnh, bỏ nghề đi xuất gia. Khi xuất gia, ông làm bài kệ:
Tạc nhật dạ-xoa tâm
Kim triêu Bồ-tát diện
Bồ-tát dữ Dạ-xoa
Bất cách nhất điều tuyến.
Dịch:
Hôm qua tâm dạ-xoa,
Ngày nay mặt Bồ-tát
Bồ-tát cùng Dạ-xoa
Không cách một sợi chỉ.
Biết dừng phiền não tức Bồ-đề, không phải nhọc nhằn tìm kiếm đâu xa. Bồ-đề đã sẵn có nơi mình, do phiền não dấy khởi phủ che nên Bồ-đề bị ẩn khuất. Một khi phiền não lắng xuống thì Bồ-đề hiện tiền. Chúng ta ôm đầy một bụng phiền não chạy tìm Bồ-đề, dù chạy cùng ngàn sông muôn núi tìm vẫn không thấy Bồ-đề. Chỉ khéo ngồi yên lại cho phiền não lắng xuống thì Bồ-đề hiện tiền.
Như khi trời đổ mưa to, nước mưa từ hư không mưa xuống là trong sạch, song rơi đến mặt đất lôi cuốn bụi bặm bùn đất chảy xuống ao hồ, thấy toàn nước đục. Có người c?n nước trong xài, ra ao hồ nhìn thấy toàn nước đục không biết làm sao. Gặp người thông minh bảo: nước đục tức là nước trong, anh ta ngẩn ngơ không hiểu, ông này bảo: Anh cứ gánh về đổ vào lu, lấy ít phèn quậy nhiều vòng cho nước cuồn lộn lên, rồi để yên vài tiếng đồng hồ, cặn bụi lắng xuống nước sẽ trong. Anh chàng kia làm đúng như người thông minh dạy, kết quả anh được nước trong.
Bởi vì nước mưa nguyên là trong, do bụi đất cuốn theo và hòa tan trong nước nên trở thành đục. Kẻ khờ thấy nước đục khác với nước trong, tưởng chừng như nước trong ngoài nước đục mà có, nên khi cần nước trong thấy nước đục là thất vọng, không biết phải tìm nước trong ở đâu. Người trí biết nước mưa vẫn trong, do bụi đất hòa lẫn nên đục, chỉ cần lóng bụi đất trở thành nước trong. Vì thế, khi thấy nước đục, họ vẫn quả quyết nói “nước đục tức là nước trong”. Chữ tức ở đây để chỉ nước trong không cố định trong, do duyên hợp thành đục; nước đục không cố định đục, do duyên lóng thành trong. Nước đục không ngoài nước trong mà có; nước trong không thể bỏ nước đục mà tìm. Bồ-đề và phiền não cũng thế, phiền não không cố định phiền não, do duyên hợp thành phiền não, Bồ-đề không cố định Bồ-đề, do duyên lóng sạch thành Bồ-đề. Bồ-đề không ngoài phiền não mà có, phiền não không ngoài Bồ-đề mà sanh. Bỏ phiền não chạy tìm Bồ-đề như người lưới cá trên không, bẫy chim đáy biển, rốt cuộc chỉ phí công vô ích.
Nước đục lóng thành nước trong, trẻ con thấy mới được nước trong, người lớn biết nước trước nguyên trong, nay lóng trở lại trạng thái cũ, có gì là “được”. Nếu trước nước vốn đục, nay lóng mấy cũng không trở thành trong. Cũng vậy, nếu tất cả chúng sanh không có sẵn tánh giác, dù có tu hành đến đâu cũng không thể giác được. Chư Phật, Bồ-tát trước cũng là chúng sanh, các Ngài tu hành đã giác ngộ được, tất cả chúng ta nếu biết tu hành chắc chắn sẽ giác ngộ như các Ngài. Vì thế, chư Phật thấy rõ tất cả chúng sanh đều có tánh giác, vì vô minh phiền não che đậy trở thành mê, một khi khéo tu lóng sạch vô minh phiền não liền trở lại giác. Từ mê sang giác, chúng sanh tưởng là mới được, nên thấy có chứng có đắc. Chư Phật biết rõ chỉ trở lại tánh giác sẵn có, nên nói vô chứng vô đắc. Vô chứng vô đắc không có nghĩa là không ngơ, mà không còn mê, hằng sống lại tánh giác của mình. Cái đã sẵn có, trở lại với nó có gì thêm bớt mà nói chứng đắc. Tuy không chứng đắc mà hằng giác chẳng mê, làm sao nói không ngơ được?
Biết trong nước đục vốn là nước trong, nước đục khéo lóng sẽ thành nước trong, đó là cái thấy của người thông minh. Ðức Phật cũng thế, Ngài thấy tất cả chúng sanh đều sẵn có tánh giác, dù đang mê tánh giác cũng không mất, nên nói “ta thấy tất cả chúng sanh đã thành Phật”. Lại có khi Ngài nói “Ta là Phật đã thành, các ông là Phật sẽ thành”. Bởi chúng ta đã sẵn tánh giác, một khi thức tỉnh huân tu tánh giác sẽ hiển hiện, việc này không có gì là lạ. Câu Phật nói trước có vẻ khó hiểu, đã thành Phật tại sao chúng sanh vẫn mê muội loạn cuồng. Bởi vì Phật cũng là một chúng sanh như chúng ta, Ngài khéo lóng vô minh phiền não chìm lặng trở thành giác ngộ. Nếu không có tánh giác sẵn, dù Ngài tu đến muôn a-tăng-kỳ cũng không ngộ, nói gì ba a-tăng-kỳ. Thấy chúng sanh sẵn có tánh giác, nói “đã thành Phật” thì có lỗi gì? Có sẵn tánh giác mà cứ quên, mải tạo nghiệp đi trong sanh tử luân hồi, càng luân hồi càng tạo nghiệp, nghiệp mê chồng chất nên thành mê muội loạn cuồng. Một phen thức tỉnh, dừng bước luân hồi, nghiệp mê băng hoại, mới tin “ta là Phật sẽ thành”.
SANH TỬ TỨC NIẾT-BÀN
Chúng sanh mải trôi lăn, lặn hụp trong biển luân hồi sanh tử, dừng sanh tử được an lành là Niết-bàn. Sanh tử là khổ đau. Niết-bàn là an lạc. Sự khổ đau an lạc dường như hai mà không phải hai. Như người đi trên vai gánh một gánh nặng đi xa, họ cảm nghe nhọc nhằn vô kể, để gánh nặng xuống nghỉ, họ cảm thấy nhẹ bổng an vui. Cái nhọc nhằn và an vui người này cảm giác được, dường như hai mà không phải hai. Chẳng qua, khi gánh nặng còn đè trĩu trên vai là đau khổ, để gánh nặng xuống thì an vui. Do hết khổ gọi là vui, chớ không có cái vui từ đâu đem đến. Niết-bàn và sanh tử cũng thế, do hết sanh tử gọi là Niết-bàn, không có Niết-bàn ngoài sanh tử.
Chúng sanh tạo nghiệp, lại do nghiệp dẫn chúng sanh loanh quanh lẩn quẩn, không có ngày cùng. Chúng ta vì sự sống tạo nghiệp, nghiệp lại dẫn chúng ta qua lại trong tam giới, lên xuống trong sáu đường, không biết bao giờ ra khỏi. Nếu khéo tu dừng nghiệp thì bánh xe luân hồi sẽ theo đó mà dừng. Theo nghiệp trôi lăn là sanh tử, dừng nghiệp lặng yên là Niết-bàn. Vì thế, cần được Niết-bàn, chúng ta phải dừng nghiệp. Có nhiều người tưởng Niết-bàn là một cảnh giới xa xôi đẹp đẽ như cảnh Cực Lạc chẳng hạn. Họ cố cầu xin Phật, Bồ-tát cho họ được Niết-bàn hoặc tìm minh sư đạt đạo nhờ truyền pháp hay điểm đạo cho họ được Niết-bàn. Họ không ngờ sạch nghiệp tức là Niết-bàn. Nghiệp lại do mình tạo, chỉ cần tìm ra động cơ chủ yếu tạo nghiệp, bắt nó dừng lại thì Niết-bàn hiện tiền. Tâm thức lăng xăng của chúng ta là chủ động tạo nghiệp, khéo tu dừng lặng nó thì Niết-bàn xuất hiện. Dừng ngắn thì được Niết-bàn ngắn, dừng lâu thì được Niết-bàn lâu, dừng hẳn thì được Niết-bàn viên mãn.
Sở dĩ có Niết-bàn là do đối với sanh tử mà lập, một khi sanh tử dứt sạch thì Niết-bàn cũng không còn chỗ đứng. Kinh có câu “Niết-bàn sanh tử đồng như hoa đốm trong không”. Ðã là hai danh từ đối đãi mà lập thì đều không thật. Không có sanh tử thì không có Niết-bàn; không có Niết-bàn thì nói gì là sanh tử. Như không có khổ thì không có vui, không có vui thì làm sao biết khổ. Niết-bàn và sanh tử không riêng lập và không ngoài nhau, nên nói “Sanh tử tức Niết-bàn”.
Sẽ có người bảo, sanh tử là do nghiệp dẫn là pháp sanh diệt, hư dối là phải, Niết-bàn là dứt sạch nghiệp là chân thật, tại sao lại nói hư dối? Quả thật Niết-bàn không hư dối, song danh từ Niết-bàn là hư dối. Thực thể Niết-bàn không có hình dáng để diễn tả, không có ngôn ngữ để nói bàn, nó vượt ngoài pháp đối đãi thế gian. Ngôn ngữ chúng ta sử dụng để diễn đạt tâm tư đều nằm trong đối đãi không thật. Dù là ngôn ngữ Niết-bàn, cũng chỉ là lớp mây phủ núi, chớ không phải là núi, đứng về núi mà nhìn thì nó là cái hư dối bên ngoài không đáng kể. Thế nên nói “như hoa đốm trong hư không” mà thực thể chẳng phải không.
THIỆN TỨC ÁC, ÁC TỨC THIỆN, PHẢI TỨC QUẤY, QUẤY TỨC PHẢI
Ta có thể nói rộng ra “thiện tức ác, ác tức thiện” hay “phải tức quấy, quấy tức phải”… chẳng hạn. Bởi vì, dù là việc thiện mà chúng ta cố chấp liền trở thành ác. Ví như người theo tôn giáo A tự thấy là hay là lợi ích, liền khuyên bà con thân quyến cùng theo với mình. Nếu những người thân không bằng lòng theo, tức thì sanh tâm giận ghét. Thế không phải chấp thiện thành ác là gì? Tuy là việc ác, chúng ta ý thức được liền bỏ là trở thành thiện. Như anh A nghe theo bạn bè làm việc trộm cắp, gặp người tốt nhắc nhở giải thích cho A biết việc làm ấy là xấu xa, tội lỗi, A liền bỏ nghề trộm cắp. Quả thật ác biết bỏ liền trở thành thiện.
Phải quấy cũng không có tiêu chuẩn cố định, nếu ta chấp vào cái phải của mình liền trở thành quấy. Bao nhiêu việc cãi vã chửi lộn đánh lộn đâu không phải do chấp phải mà ra. Có người nào sau khi đánh lộn, bị người hỏi, dám nhận là tôi quấy đâu. Mọi người đều thấy mình phải nên có ẩu đả. Ngược lại, người ý thức việc làm của mình là quấy tự bỏ, liền trở thành phải. Những người lầm đường lạc lối, khi họ thức tỉnh xoay trở lại đường lành liền trở thành người tốt. Mọi sự việc trong đối đãi đều như thế cả, không có một sự việc gì là cố định. Cái phải của A không phải là cái phải của B. Cái phải của nhóm C không phải là cái phải của nhóm D. Cái phải của xứ này không phải là cái phải của xứ khác. Cái phải của thời gian trước không phải là cái phải của thời gian sau. Thế thì, lấy đâu làm tiêu chuẩn mà chấp phải quấy! Chấp chặt phải quấy là ngu xuẩn là khổ đau. Biết buông xả linh động tùy thời là người khôn ngoan an ổn.
CHỮ TỨC ÐỐI TRONG VẠN VẬT
Ta đi xa hơn ra ngoại giới, với mọi sự vật dùng chữ TỨC vẫn đúng lẽ thật. Như nói “thể lỏng tức là thể hơi” hoặc nói “thể hơi tức là thể lỏng”. Nước là thể lỏng đun nóng bốc lên thành hơi, hơi nước lên cao gặp khí lạnh đọng lại rơi xuống thành nước thể lỏng. Cũng có thể nói “thể lỏng tức là thể cứng, thể cứng tức là thể lỏng”. Nước là thể lỏng khi để vào tủ lạnh cô đọng thành nước đá thể cứng; nước đá đem để ngoài nắng tan thành nước thể lỏng. Ngoài nước ra, các loại chì, đồng, sắt…, từ thể cứng để vào lò nấu sức nóng lên đến 1.000 độ C trở lên sẽ chảy thành thể lỏng, thể lỏng đó đem ra để nguội trở thành cứng… Vì thế, thấu hiểu chữ TỨC là thấy đúng lẽ thật, cũng là thấy tột cùng lý tùy duyên chuyển biến của các pháp. Môn hóa học hiện tại chứng minh sự vật không tự tồn tại, không có cá thể độc lập, không giữ nguyên một vị trí.
Một vật thể này bị thay đổi chất liệu liền biến thành vật thể khác. Thế nên, con người có thể dùng các thứ nguyên liệu khoa học đã tìm được, biến chế thành những sản phẩm hữu ích cung ứng cho nhân loại cần dùng. Mọi vật thể kết hợp không phải đơn thuần, mà sự cấu tạo rất phức tạp. Biết được sự cấu tạo của vật thể, người ta sẽ tạo điều kiện biến nó thành những vật theo nhu cầu của mình. Sự biến hóa đổi thay trong mỗi vật thể đã là bằng chứng hùng hồn về lý không cố định của sự vật. Thấy được lý không cố định là thấy tột bản tánh của sự vật. Những nguyên tố hợp thành sự vật tuy nhiều song chẳng lắm, do sự kết hợp tăng giảm biến thành muôn vàn sự vật có đủ thiên hình vạn trạng trên thế gian này. Quả là trong vật này có những nguyên tố của vật khác, trong vật khác có những nguyên tố của vật này. Thế nên, nói “A tức B, B tức A” là đúng lẽ thật đâu có sai ngoa.
HIỆU DỤNG CHỮ “TỨC” TRONG SỰ TU HÀNH
Hiểu rõ chữ TỨC có công hiệu rất lớn trong việc tu hành. A tức là B, thì A không thật A, B tức là A thì B không thật B. Muôn vật tùy duyên thay hình đổi dạng, có cái gì cố định mà chấp. Bệnh lớn của con người là cố chấp, chấp càng nặng thì khổ càng nhiều. Mỗi người chấp theo cái thấy, cái nghe, cái sở học, cái suy nghĩ, cái tưởng tượng của mình hoặc của nhóm người thân mình, nếu người khác thấy đồng cái thấy của mình, nhóm mình thì thân; thấy khác cái thấy cái chấp của mình, nhóm mình thì thù. Ðây là gốc đấu tranh gây ra đau khổ cho nhân loại. Sự vật là một dòng biến thiên, mà mình nhìn theo cái chấp cố định thì làm sao thấy được lẽ thật, làm sao đem lại sự an bình. Con người khủng khiếp hãi hùng khi nghe tin mình sắp chết. Sợ chết vì chấp thân là chắc thật lâu dài, bỗng dưng nó sắp tan hoại nên hoảng sợ. Sự nghiệp tài sản cũng chấp cố định bền lâu, xảy ra tai nạn hỏa hoạn, binh đao, trộm cướp… khiến phải tan hoại, người ta sẽ đau khổ vô hạn. Tình cảm bạn bè, thân hữu…, chấp mãi mãi không đổi thay; một khi gặp cảnh đổi thay, người ta sẽ thảm sầu vô kể.
Người nắm vững nguyên tắc “các pháp không cố định”, mọi cố chấp trên từ từ tan rã, khổ đau, sầu thảm, hoảng sợ, hãi hùng dần dần tan biến theo mây khói. Thân sắp chết, sự nghiệp tan vỡ, bạn bè chia lìa… cũng là lẽ đương nhiên trong dòng biến thiên của vạn vật. Chúng ta chưa can đảm cười trước cảnh ấy, song cũng can đảm nhìn chúng trôi qua với tâm niệm an bình. Bởi người tu hành là huân tập phát minh những lẽ thật ấy. Sở dĩ hiện nay có lắm người tu khi gặp hoàn cảnh tang thương biến cố liền hoảng sợ bất an, do họ không phát minh những lẽ thật này. Họ nghĩ rằng tụng kinh nhiều, niệm Phật lắm, cúng kính hậu là đầy đủ công phu tu hành. Tu bằng cách nhắm ra ngoài, chạy theo hình thức làm sao đạt được lẽ thật, mà làm suy giảm khổ đau. Họ càng tu thì chấp càng nặng, chấp nặng thì đau khổ càng nhiều. Thế là, tu chỉ tăng khổ, chớ không hết khổ.
A tức là B, thì A không thật là A, B tức là A, thì B không thật là B, hai bên đều không cố định. Ðã không cố định thì làm sao dám bảo là thật. Hai bên đều không thật thì không thể thành hai. Bởi không thể thành hai là tiến thẳng vào “Pháp môn bất nhị”. Thấy vạn vật đối đãi không thật, còn gì để lý giải luận bàn. Vừa phát ra ngôn ngữ là nằm trong đối đãi, đối đãi thuộc hai bên. Muốn chỉ chỗ cứu kính của “Pháp môn bất nhị”, ngài Duy-ma-cật chỉ còn cách lên tòa ngồi lặng thinh. Chính thế mà Bồ-tát Văn-thù tán thán không tiếc lời.
Source: thuvienhoasen
.
TÀI SẢN KHÔNG BAO GIỜ MẤT
Của Hòa Thượng Thích Thanh Từ
Nhà xuất bản: Phương Đông 2012
BỎ TẤT CẢ ĐƯỢC TẤT CẢ
(Giảng tại Chùa Dược Sư TP. HCM 07-2000)
Hôm nay tôi sẽ giảng về đề tài “Bỏ tất cả là được tất cả”.Nhưng để làm rõ hơn ý nghĩa của đề tài này, tôi sẽ nói phản đề lại “Được tất cảlà mất tất cả” để quí vị dễ đối chiếu.
Tại sao “Được tất cả là mất tất cả?” Hiện giờ chúng ta thấy ở thế gian, có người muốn gì, làm gì đều được thành công. Muốn tạo được cái nhà liền được cái nhà, muốn có chiếc xe hơi liền được chiếc xe hơi, muốn có danh vọng liền được danh vọng, muốn có tài sản liền được tài sản. Tóm lại muốn gì được nấy. Tuy nhiên như thế, nhưng đến khi hết duyên nhắm mắt ra đi, thì tất cả những gì mình được đó có còn không? Mất hết. Vậy thì được tất cả rồi sẽ mất tất cả, chớ không có gì còn mãi với mình. Người đời ước ao mong mỏi những gì mình muốn đều được toại nguyện, đó là hạnh phúc. Nhưng thực ra được bao nhiêuđi nữa, cuối cùng rồi cũng ra đi với hai bàn tay trắng. Tất cả những gì cả đời mình cố công tạo dựng đều để lại cho thế gian, vậy thì được đó chính là mất. Cho nên người biết tu, thức tỉnh thấy rõ cuộc đời như vậy.
Người xuất gia tu hành, có nghĩa là xả phú cầu bần, xả thân cầu đạo. Xả tức là bỏ hết. Bỏ hết những giàu sang ở đời, bỏ cả thân mạng này để cầu đạo. Đã bỏ cả giàu sang, quên cả thân mạng thì có gì mà bỏ không được? Thân mạng còn không tiếc thì cái gì đáng tiếc hơn? Vậy mà có khi gặp những việc nhỏ lại xả không được. Đó là chưa thực hiện được đúng với bản nguyện của mình.
Tôi nói bỏ tất cả sẽ được tất cả là sao? Chúng ta đọc lịch sử biết rõ đức Phật là con nhà vương giả, Ngài đi tu bỏ lại tất cả ngôi vị, quyền tước, tài sản, sự nghiệp, đất nước v.v… chỉ còn chiếc áo cẩm bào trên mình. Nhưng cuối cùng Ngài cũng cởi ra, đổi lấy chiếc áo thợ sănđể vào rừng tầm sư học đạo. Như vậy tất cả danh vọng sự nghiệp thế gian, cho tới cha mẹ vợ con Ngài đều xả tất cả. Ngài chỉ đem theo chí nguyện xuất gia, cầu đạo giải thoát thôi. Đó là xả phú cầu bần.
Kế đó, đức Phật xả đến thân. Sáu năm tu khổ hạnh, Ngài ăn uốngđơn giản, một ngày chỉ chút ít mè, chút ít đậu cho tới kiệt sức ngất xỉu. Trong kinh A-hàm diễn tả lúc đó thân Phật chỉ có xương sườn, không còn chút da thịt nào cả. Đối với thân Ngài không còn một chút luyến tiếc, không một chút yêu quí, miễn sao tìm được đạo giải thoát thì thôi. Đó là tinh thần xả thân cầu đạo của người quyết chí tu hành.
Rõ ràng đối với hai thứ xả đó, đức Thích Ca đã thực hành hết rồi. Trước là xả phú cầu bần, kế là xả thân cầu đạo. Chúng ta bây giờ có xả được không? Xả chừng bao nhiêu? Đó là câu hỏi mà mỗi người phải tự đặt ra, rồi kiểm nghiệm lại mình đểthấy mình làm được tới đâu.
Đứng về mặt thân, đứng về sự nghiệp, đức Phật đã xả hết rồi, Ngài lại tiếp tục xả đến tâm nữa. Nghĩa là buông bỏ tất cả những niệm tưởng lăng xăng từ thô đến tế, cho đến khi tâm được định, hoàn toàn thanh tịnh, chừngđó Ngài mới được giác ngộ viên mãn.
Như vậy ý nghĩa xả ở đây, một là xảtất cả sự nghiệp tài sản, cha mẹ anh em bên ngoài. Kế đó xả thân mạng, sau cùng là xả hết nội tâm của mình. Nội tâm là những thứ lăng xăng loạn tưởng, làm cho mình phiền não rối rắm. Thiền định dưới cội Bồ-đề suốt bốn mươi chín ngày đêm, khi đó tâm Phật hoàn toàn thanh tịnh, không còn một ý niệm gì nên vào được đạiđịnh. Từ đại định Ngài phát triển tuệ giác như thật của mình, thấu suốt được tánh tướng của các pháp, liền đó được giác ngộ chứng quả vị Phật.
Như vậy xả có ba giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất là xả tất cả các thứ bên ngoài, từ sự nghiệp, danh vọng, tài sắc cho tới thân quyến cha mẹ anh em vợ con. Giai đoạn hai là xả bỏ thân mạng, liều chết để tu. Đó là xả thân. Giai đoạn ba là xả tất cả tâm nghĩ tưởng lăng xăng, không còn mảy may vọng động lo lự nào, gọi là xả tâm. Sau đó mới chứng ngộthành Phật.
Khi thành Phật rồi thì thế nào? Như hiện giờ chúng ta kiểm tra nội trong nước Việt Nam tính ra cũng mấy chục ngàn ngôi chùa, còn Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên, Thái Lan, Sri Lanka (Tích Lan), Myanmar (Miến Điện) v. v…cộng lại không biết bao nhiêu ngôi chùa thờ Phật. Như vậy Ngài bỏ ngai vàng, giang san, sự nghiệp trong nước, đến khi thành Phật rồi thì có tất cả. Ngài xảbỏ quyến thuộc nhỏ bé, để rồi sau đó nghìn muôn ức triệu người nhìn nhận là con của đức Phật, như vậy có phải là được tất cả không. Xả sự nghiệp riêng được sựnghiệp chung to lớn hơn. Xả thân quyến riêng thân quyến chung nhiều vô kể. Xảmột được vô số thân. Xả tâm nghĩ tưởng lăng xăng chứng được Tam minh, Lục thông, Tứ vô sở úy, Thập bát bất cộng v.v… Xả những thứ vô nghĩa tầm thường, thì đạtđược những vi diệu phi thường. Rõ ràng Ngài xả tất cả là được tất cả không. Ngược lại với thế gian, giữ tất cả để rồi mất tất cả.
Giờ đây chúng ta tu theo Phật phải làm sao? Nên giữ hay nên xả? Chúng ta phải tập xả, người xuất gia thì xả trọn vẹn, còn người tại gia thì xả từng phần, nhưng phải xả chớ đừng cố giữ. Tôi thí dụ trước về người tại gia. Như quí Phật tử làm ăn có tiền, có cơm gạo, thấy ai khổ mình giúp, đó là xả. Bốthí là xả, xả quyền lợi của mình giúp cho người thiếu, người khổ. Người đời tranh giành danh lợi, còn mình tu rồi thì bớt không tranh giành danh lợi, đó là xả. Tất cả những lời hơn thua tranh cãi nhau mình cũng bỏ hết, đó là xả. Tập xả được như vậy là chúng ta khéo tu, có tiến. Ngược lại cái gì cũng muốn giữ hết thì không thể nào tu được. Tu mà muốn làm giàu, muốn làm quan, muốn hơn thiên hạ, thì có được không? Cho nên nói tới tu là nói tới xả, tới chừa bỏ.
Phật tử tại gia còn như thế, huống nữa là người xuất gia. Xuất gia rồi thì có gì để giữ đâu. Tất cả đều là của chung, cuộc sống của mình chỉlà sống để tu, chớ không phải sống để được danh, được lợi, được tất cả sựnghiệp ở trong chùa. Như vậy đâu có gì là của mình, cho nên người tu là người dễ xả trăm phần. Xả hết quyền lợi, xả hết những gì thuộc về sự nghiệp, hình thức bên ngoài, không giữ gì hết. Chẳng qua vì đạo mà có chùa có đồ chúng đểtruyền bá chỉ dạy cho người cùng tu, chớ không có cái của mình. Nhớ rõ vậy là chúng ta xả. Đó là xả bên ngoài, còn xả về bản thân thì sao?
Trước tôi nói về cư sĩ. Người không biết đạo họ lo lắng tấm thân trau chuốt cho đẹp, nuôi nấng cho sung túc mập mạp. Còn người biết tu không cần trau chuốt, chỉ sống bình dị, vừa phải, đủ noấm thôi chớ không quá sung túc rồi sanh ra bệnh hoạn. Đó là Phật tử cũng xả mà xả vừa chừng, không phải xả nhiều. Người biết tu đối với danh không ham, đối với lợi biết vừa đủ, đối với tài sắc v.v… đừng để dính nhiễm, đó là xả về thân.
Giới xuất gia thì xả thế nào? Hồi chưa xuất gia mình cũng đầu tóc như ai, ăn mặc như ai. Bây giờ xuất gia rồi cạo bỏ tóc, những gì thế gian cho là duyên dáng, là đẹp mình xả hết, đó là xả rồi. Tới ăn mặc. Người đời thay đổi đồ này đồ kia cho đẹp, ra vẻ sang trọng quí phái, còn mình tu rồi mặc áo nâu áo nhuộm, đó là xả. Người đời ăn món này món kia cho ngon miệng, mình tu rồi chỉ ăn tương rau chay lạt, đó là xả. Cư sĩ tại gia một ngày phải ngủ đủ tám tiếng cho khỏe, còn người xuất gia ngủ chừng bốn năm tiếng thôi. Bớt ăn, bớt ngủ như vậy là xả. Nghĩa là những gì trau chuốt, cung dưỡng cho thân, chúng ta giảm bớt để dễ tu, không còn đa mang nhiều thì mới mong đến gần với đạo. Đó là xả về thân. Bây giờ tới tâm.
Về tâm, cư sĩ tại gia xả như thế nào? Nếu có ai nói gác một câu, quí vị có nhịn được không? Chắc là khó nhịn lắm. Nhịn thì sợ người ta nói mình ngu, mình thua nên ít chịu nhịn. Bây giờ quí vị biết tu rồi, phải nhớ lời Phật dạy vô thường để chận đứng tâm tranh đua của mình. Nếu nghĩ tới danh lợi thì biết nó là vô thường, không bền lâu. Đã vô thường mà dành được mất với nhau làm gì, đó là xả. Chết sống nay mai là chuyện lớn mà không lo, còn hơn thua phải quấy là chuyện nhỏ lại để tâm lo lắng, có phải khờ dại không. Cho nên nghĩtới vô thường đuổi gấp chúng ta không còn thời giờ mà tu, huống nữa tranh hơn tranh thua. Nhớ như vậy thì tất cả những gì người đời lấn hiếp mình, chúng ta bỏ qua được hết.
Người dành hơn dành thua là khôn hay người nhịn bỏ để tu là khôn? Người lấn hiếp thấy dường như hơn, người nhịn thấy dường như thua. Nhưng xét kỹ người dành hơn rồi đi tới chỗ chết không biết về đâu, còn người nhịn đểtu hành, mai kia khi chết đã có hướng sẵn nên không lo không sợ, đó mới là người khôn. Như vậy người biết nghĩ tới chuyện lâu dài là khôn, người chỉ nghĩnhất thời là dại. Vì vậy chúng ta đừng tranh hơn tranh thua, để rồi phiền nãođau khổ, không tu hành. Đó không phải là thật khôn. Người thật khôn phải tránh, phải chừa hết những điều gây cho tâm mình rối loạn, phiền não, sự tu mới tiến. Tu tiến mới mong cứu được mình.
Cho nên tu hành là phải ẩn nhẫn. Nói ẩn nhẫn nhưng thật ra cóẩn nhẫn gì đâu. Thí dụ người nào đó nổi sân, thấy mình đi ngang họ nói: “Cha mầy”. Lúc đó mình nổi nóng lên muốn chửi lại. Nhưng tôi xin hỏi chữ “cha mầy”đó nặng ở chỗ nào? Sao chúng ta không trả lời: “Phải tôi có cha”. Nói cha mầy tức là nhắc cha của mình thì mình nhận, có gì đâu phải giận. Đằng này nghe người ta nói “cha mầy” liền nổi sân nói lại “mẹ mầy”, thế là có chuyện đánh lộn. Người ta cứ sống cuồng loạn với nhau thật vô nghĩa. Mình có cha người ta nói cha mình thì nhận là xong, có gì phải tức giận. Người thế gian nói điên khùng, chẳng lẽ mình tu cũng điên khùng theo. Họ điên khùng thì chúng ta phải sáng suốt, nhưng không hiểu sao người ta cứ đua nhau dành phần điên về mình. Thiên hạ nói mình nặng một, mình nói nặng hai, rồi cãi nhau đánh nhau, có giống hai người điên không? Vậy mà ta vẫn cứ dành làm người điên!
Rõ ràng sự tu không phải khó, chỉ là sự sáng suốt chân thật đểcho mình được an lành. Nghĩ nhiều khi chúng ta khờ dại thật đáng thương. Nghe người ta nói mình là con chó, liền nhảy tới tát tai người ta, như vậy là nhận mình chó mất rồi, mới nhảy ra cắn người ta. Người ta nói mình con chó, mình chỉcần bình tĩnh trả lời tôi không phải con chó, thế là đủ rồi, người ta cũng sẽkhông biết nói gì hơn nữa. Đó là sự lầm lẫn si mê của con người, vì chấp ngã quá nặng nên động tới mình liền sanh sự.
Người tu là phải xả bỏ ngã chấp đó, luôn luôn tỉnh táo sáng suốt, chừa bỏ những gì sai lầm, không nên bám giữ. Nhưvậy chúng ta mới biết tu. Nếu không biết tu thì dễ gây sân hận oán hờn nhau, rồi đau khổ cả đời, mình khổ người khổ. Thế gian khổ là vì vậy. Cho nên người biết tu trong tâm không cố chấp, không nghĩ mình khôn hơn hết, đẹp hơn hết, tài giỏi hơn hết v.v… Mà chỉ thấy mình là cọng cỏ, cọng rơm thôi, không có gì quan trọng, nên rất dễ sống, nhẹ nhàng, không đau khổ. Người chấp ngã sâu nặng quá nên động tới nổi sân, động tới nổi giận, động tới liền buồn. Còn chúng ta xả được cái ngã này, thì hết khổ hết buồn.
Phật nói “chấp là kẻ mê”, nói dễ hiểu hơn chấp là người ngu. Chấp nhiều thì ngu nhiều, chớ đừng tưởng chấp là hay. Người tu là người tỉnh, người sáng suốt thì không nên chấp. Không nên chấp về thân, không nên chấp vềtâm, không nên chấp về cảnh. Được vậy chúng ta sống được bình an, tu hành thanh tịnh. Đó là nói về người tại gia.
Bước qua lãnh vực của người xuất gia, còn xả nhiều hơn nữa. Khi có huynh đệ giận, chỉ mặt mình nói: “Huynh ngu quá”,lúc đó mình cười không hay cũng đỏ mặt? Nếu nghe nói “Huynh ngu quá”, chúng ta liền đáp “Phải, ba tạng kinh tôi học chưa được một phần tám, không ngu sao được”.Nói vậy thì người kia hết nói. Chỉ khéo một chút thì chúng ta bình an, không gì giận hờn chi hết.
Hoặc nghe người ta nói “Coi bộ thầy (cô) si mê quá”, mình vui vẻ nhận ngay “Tôi chưa giác, không si mê sao được”. Đáp như vậy là yên. Chớ nghe người ta nói mình si mê, nổi giận cãi ùm lên thì quả là si rồi. Chúng ta chỉ cần khéo một lời nói, khéo một cái nhìn thì hết phiền não. Người ta chê mình ngu, chê mình si mê, mình cười thôi không có gì quan trọng. Đằng này, huynh đệ nói lời hơi nặng một chút, mình phiền não hai ba ngày, bỏ ăn bỏ ngủ, thì chừng nào mới thành Phật. Ai tu cũng muốn thành Phật mà cứ chấp. Càng lớn chấp càng nhiều, chấp quá chừng là chấp thì thành Phật sao nổi. Cho nên chúng ta tu phải bỏ, phải xả hết mọi ngã chấp.
Người tu vui trong đạo, vui với những lời của Phật dạy, mọi bàn luận hơn thua là trò đùa, không có giá trị gì hết. Nhớ như vậy, nghĩ như vậy là chúng ta biết tu. Được thế sự tu mới tiến nhanh, mới được lợi ích. Cho nên xả thân đã là tốt nhưng xả tâm chấp ngã mới là quan trọng. Người khéo tu cần phải biết điều này.
Xả tâm tức là xả bỏ tất cả những vọng tưởng của mình. Tại sao xả bỏ vọng tưởng quan trọng như vậy? Bởi vọng tưởng là cái mê lầm, là những cụm mây đen che mất trí tuệ chân thật của mình. Còn vọng tưởng là còn mê lầm, chừng nào sạch hết vọng tưởng mới được giác ngộ. Chúng ta tu bất cứ pháp môn nào cũng phải dẹp vọng tưởng. Không dẹp vọng tưởng thì không bao giờ thành Phật.
Thí dụ tu Tịnh độ thì niệm Phật tới nhất tâm bất loạn. Nghĩa là niệm đến chỗ chỉ còn một câu niệm Phật thôi, không nghĩ gì khác ngoài câu niệm Phật. Nhất tâm cũng gọi là nhất niệm. Dùng một niệm để dẹp tất cả niệm, tất cả niệm sạch rồi cuối cùng một niệm ấy cũng phải xả luôn cho tới vô niệm. Niệm tới chỗ không còn niệm nào nữa thì mới thấy Phật, mới được vãng sanh.
Người tu thiền cũng vậy, ban đầu vì tâm loạn tưởng quá nhiều, muốn nó dừng nên dùng phương tiện hoặc đếm hơi thở,hoặc quán chiếu một pháp nào như quán ngũ uẩn giai không v.v… Tới khi tất cảnhững niệm lăng xăng lặng rồi, tâm thanh tịnh vô niệm, đó là vào định. Tu thiền phải đến chỗ an định trọn vẹn, chừng đó mới chứng được vô sanh.
Trong kinh thường dạy, chúng ta ai ai cũng có tánh Phật. “Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh” nghĩa là tất cả chúng sanh đều có tánh Phật. Đức Phật biết sống trở về với tánh Phật của Ngài, nên Ngài thành Phật. Chúng ta cũng có tánh Phật nhưng không biết trởvề sống với tánh Phật của mình, nên chúng ta làm chúng sanh. Giờ đây muốn trởvề tánh Phật của mình phải làm sao? Đây là chỗ tôi nhắc luôn. Chúng ta có tánh Phật nhưng vì quên, không nhận ra nên sống với nghiệp của chúng sanh. Như trong giờ ngồi thiền, mình muốn tâm yên lặng hay lăng xăng? Muốn tâm yên lặng, nhưng có chịu yên lặng đâu. Vừa yên lặng là thấy hơi buồn, liền nghĩ cái này, nghĩcái kia rồi chạy theo nó mất tiêu.
Tại sao mình thường hay nghĩ như vậy? Bởi vì tánh Phật hằng tri hằng giác nơi con người không có hình bóng, không có tướng mạo nên khó nhận vô cùng. Cái gì có tướng mạo, có hình bóng mình dễ nhận ra. Nhưng nếu nghiệm kỹ, chúng ta thấy khi tâm hồn thanh thản, không nghĩ suy gì hết được đôi ba phút, trong thời gian ấy mình có biết không? Vẫn biết chứ. Mắt thấy tai nghe, vừa có người đi biết có người đi, vừa có tiếng nói biết có tiếng nói. Mũi cũng vậy, mùi thơm mùi hôi đều biết rõ. Như vậy sáu căn hằng tri hằng giác mà chúng ta không nhận ra, đợi có nghĩ suy mới cho rằng biết. Vì cái biết đó không có hình dáng, không động nên mình dễ quên.
Thế nên hàng ngày chúng ta sống với tâm vọng tưởng, chạy theo bóng dáng của sáu trần, cho đó là tâm mình. Thân vô thường sanh diệt cho là thân mình. Lấy thân sanh diệt, tâm vô thường làm mình thì khi nhắm mắt nhấtđịnh đi trong luân hồi lục đạo, không nghi ngờ. Bây giờ tu là muốn ra khỏi conđường đó, vậy phải làm sao? Chúng ta thường nói tu để giải thoát sanh tử, giải thoát bằng cách nào? Nếu chúng ta khởi nghĩ lành, tạo nghiệp lành, sanh cõi lành; khởi nghĩ dữ, tạo nghiệp dữ, sanh cõi dữ. Ba ác đạo và ba thiện đạo do tâm niệm lành dữ của mình mà ra. Nếu tâm niệm lành dữ đều không còn thì mình điđường nào? Không đi đường nào, tức là giải thoát sanh tử rồi. Thiền định chính là không còn niệm thiện ác nào dẫn mình đi trong sanh tử nữa.
Như vậy nhân giải thoát ở đâu, hiện giờ chúng ta có hay không? Ai cũng có hết, đó là Phật tánh, nó bàng bạc khắp nơi mình, chỉ tại chúng ta không nhớ. Còn suy nghĩ phải quấy, hơn thua có hình bóng, nên mình biết tâm sanh diệt đó mà không biết tâm thật của mình. Cứ chạy theo tâm sanh diệt thì trách nào chúng ta không đi trong luân hồi. Giờ muốn ra khỏi luân hồi phải dừng tâm sanh diệt. Niết-bàn là giải thoát sanh tử không còn bị trở lui lại trong lục đạo luân hồi nữa. Cái thật biết của chính mình, không hình, không tướng, không động tịnh, cái biết đó là giải thoát sanh tử, chớ đâu phải không có. Nhiều người cho rằng bỏ nói thân giả dối, bỏ tâm vọng tưởng rồi thì không còn gì nữa. Đó là hiểu biết nông nổi, cạn cợt.
Chúng ta nhìn lên bầu hư không, thấy con chim bay qua. Lúc đó chỉ nhớ con chim mà quên bầu hư không. Con chim bay qua mất, lát sau có chiếc phi cơ bay lại, lúc đó mình nhìn theo chiếc phi cơ.Phi cơ lại bay mất, có đám mây xuất hiện, mình chạy theo đám mây. Cứ chạy theo các sự đổi thay vô thường, mà quên bẳn bầu hư không hiện tiền yên lặng và trùm khắp tất cả.
Tâm mình cũng giống như vậy. Hết nghĩchuyện A liền nhớ người B, cho nên cả giờ ngồi thiền cứ chạy bậy, có khi đấu khẩu nữa. Lý luận với ai thua, đến giờ ngồi thiền đấu tiếp, nghĩ ra thế này thếkia, phải nói như vầy hay hơn. Như vậy ngồi đó để lý luận chớ không phải để tu. Nếu mà tâm cứ ôm ấp những thứ ấy, là chúng ta ôm ấp tâm sanh diệt, gìn giữ thân sanh diệt, nhưng hai thứ đó bản chất của nó vô thường, làm sao giữ được? Giữthân sanh diệt cho mấy cũng có ngày bị hoại, giữ tâm sanh diệt càng nguy hơn vì nó sẽ dẫn mình đi trong lục đạo luân hồi. Buông hết hai thứ ấy, chỉ còn một tâm hằng tri hằng giác hiện tiền đây, đó mới là cái chân thật. Cho nên người học Phật phải tìm tới chỗ cứu cánh chân thật đó, chớ không phải học Phật để đời sau sanh ra giàu sang hơn đời này, đẹp hơn đời này v.v…
Tu để gỡ sạch mọi thứ nghiệp luân hồi, ra khỏi dòng sanh tử,đó là mục đích trên hết. Đức Phật dạy “Bị thiêu đốt dưới địa ngục chưa phải là khổ, bị đói khát trong loài ngạ quỷ cũng chưa phải là khổ, bị kéo cày kéo xe cũng chưa phải là khổ. Chỉ có mờ mịt không biết lối đi đó mới là khổ”. Vì khổ ở địa ngục hết tội rồi cũng được ra. Khổ ở ngạ quỷ hết kiếp ngạ quỷ cũng được sanh trở lại. Khổ ở loài súc sanh kéo xe kéo cày, hết nợ rồi cũng được trở lại làm người. Chỉ có mờ mịt không biết lối ra, tức là không biếtđường đi để thoát khỏi lục đạo luân hồi, đó mới là cái khổ hơn hết. Bởi còn trong lục đạo luân hồi thì cứ quay vòng sanh rồi tử, tử rồi sanh, không biết bao giờ mới xong.
Chúng ta kiểm lại, người ở cảnh sung sướng có hoàn toàn sướng hay cũng khổ? Có ai không bệnh, không già, không chếtđâu. Có bệnh, già, chết tức là có khổ. Có thân là có khổ. Lẩn quẩn mãi trong sanh già bệnh chết, không khổ sao được. Chỉ khi nào ra khỏi đó mới thực là hết khổ. Vì vậy Phật nói chỉ hết si mê mới là hết khổ.
Thế thì muốn hết khổ chúng ta phải bỏchấp về thân, bỏ chấp về tâm. Tâm được trong sạch lặng lẽ, thì tri giác của mình mới hiện tiền, đó là giải thoát sanh tử. Còn ôm ấp giận hờn, thù oán, thương ghét không bao giờ hết khổ. Tóm lại, muốn hết khổ phải buông tất cả, đểmột tâm thanh tịnh hiện tiền hằng tri hằng giác, đó là thoát ly sanh tử. Trong nhà Phật nói: Bỏ một thân mà được ba thân là Pháp thân, Báo thân, Hoá thân, rồiđược Tam minh, Lục thông, Tứ vô sở úy v.v… Như vậy có phải bỏ tất cả được tất cả không, có thiệt thòi chỗ nào đâu. Chỉ vì chúng ta không dám xả, cứ khư khưchấp cái này của mình, cái kia của mình nên chúng ta khổ hoài. Mình đã khổ mà không ai thương tưởng tới, lại còn ghét nữa. Còn cứ xả hết vì mọi người, thì tađã không khổ mà mọi người lại thương mình nhiều hơn.
Cho nên tôi nói bỏ tất cả là được tất cả, còn giữ tất cả là mất tất cả. Quí vị tự xét nên bỏ hay nên giữ, tiến hay lùi là quyền của mỗi người chúng ta vậy.
Thích Thanh Từ