RỪNG THIỀN THƯ PHÁP
Minh Đức Triều Tâm Ảnh
Lá hoa thức trắng đêm sương
Trăng trời lỗi hẹn khu vườn hoang liêu
.
Lối vào giấc mộng liêu trai
Bước ra mây trắng níu vai dẫn đường
Nguồn: thuvienhoasen
Những Chuyện Nho Nhỏ
Minh Đức Triều Tâm Ảnh
Có một số người học Phật thích tìm kiếm, thu thập những tư tưởng cao siêu, từ đó đem ra lý giải, phân tích rất hay nhưng phần hạ thủ công phu, tu tập cụ thể như thế nào lại không nghe nói tới! Họ đã quên rằng, kiến thức ấy chỉ là âm bản, chỉ là khái niệm, không phải là cái thực. Cái thực ấy phải tự mình chứng nghiệm. Cái mà mình chứng nghiệm mới là cái thực của mình. Vậy nên, sau khi đọc kinh sách hoặc nghe pháp từ các vị sư, thầy, chúng ta phải “lấy ý quên lời” rồi chiêm nghiệm tinh tuỷ giáo pháp ở chính kinh nghiệm bản thân, trong đời sống tương giao căn- -trần-thức. Có những điều về Phật học chúng ta có thể giảng nói rất rành rẽ nhưng nó chưa phải là cái thực, chỉ khi mình chứng nghiệm rồi mới thấy biết nó một cách cụ thể, sống động hơn. Bài viết này tôi muốn chia sẻ với những người tu Phật về lãnh vực này, những chuyện nho nhỏ thôi mà theo tôi, nó mới chính là “pháp thực”.
I- Bài thứ nhất: Rắn độc cắn.
Tôi nhớ khoảng tháng 10 năm 1991, khi ấy Rừng Thiền HKST còn hoang sơ, tôi ở trong một cốc tranh nho nhỏ. Hôm ấy mưa lũ, lạnh; tôi có công việc ở chùa ngoài, vào núi muộn, phải lội qua những đám ruộng, những khe nước ngập ngang ngực (tôi không biết bơi!). Chạng vạng tối tôi mới về đến “chùa”; thay y áo rồi bỏ mùng, đắp chăn, nằm nghe mưa gió ầm ào ở bên ngoài. Cái cốc tranh bằng bốn cọc tre xiêu vẹo với mấy tấm phên sơ sài cứ mãi rung rinh, lung lay không biết nó sẽ sụp đổ lúc nào. Ngay hoàn cảnh ấy, tôi với cảm giác bất an, cảm nhận thấm thía sự nhỏ nhoi, bất lực của thân phận con người trước sự cuồng nộ vô chừng, vô đỗi của thiên nhiên.
Thuở ấy tôi tập được thói quen, là khi ngủ, chỉ ngủ bằng một tư thế từ đầu hôm cho đến sáng. Đêm ấy, tôi ngủ với một con mèo con lạnh xo ro tội nghiệp. Chừng gần sáng, nghe tiếng mèo kêu, tôi tỉnh dậy, nghĩ chắc là con mèo muốn đi “vệ sinh” nên tôi nghiêng người, trở mình, vén mùng thả con mèo ra ngoài. Ngay khi ấy, tôi nghe dưới lưng bàn chân một cảm giác đau buốt như bị con gì cắn (1). Tôi bật ngồi dậy, lấy đèn pin tù mù – do gần hết pin – soi tìm nhưng không thấy gì cả. Lúc ấy trời đã tạnh mưa, tôi rời giường, chống cây gậy tre lò dò đi xuống ngôi nhà ở (cái láng) của một số công nhân hợp đồng trồng rừng. Sau một hồi đánh thức dậy, tôi nhờ họ đốt đèn lên, đưa lưng bàn chân phải cho họ xem và kể chuyện bị con gì cắn không biết! Có một thanh niên vốn hay đi đào vàng, đi trầm, do lũi rừng nhiều nên có kinh nghiệm, nhìn dấu vết thương trên lưng bàn chân của tôi, cậu nhăn trán nói: “Dấu 2 vết răng như thế này là thầy bị rắn hổ cắn rồi”. Nói thế xong, cậu thanh niên cúi xuống, lấy miệng hút nhiều lần, nhổ ra, sau đó, xé ngay tấm vải cột chặt vào cổ chân, cốt ngăn độc lên tim. Tuy thế, cậu ta thẫn thờ nhìn vết thương không sưng tấy lắm, nói tiếp: “Nếu là rắn lục xanh, rắn lục lửa thì vết thương sưng tấy, đau nhức, sưng phù ngay nhưng không chết người; còn đây là rắn hổ độc, sưng ít, nhưng rất nguy hiểm”. Nói thế xong, cậu ta bảo tôi nhai một nhúm thuốc lào, nuốt nước rồi đắp bã thuốc lên vết thương. Đấy là cách chữa trị duy nhất, vì không còn đường lui tới khi nước lũ đã dâng ngập đến sát chân núi.
Lát sau, tôi cảm nghe cơ thể bắt đầu khác lạ. Bây giờ viết lại tôi có thể kể ra những hiện tượng đó như sau: Cơ thế bắt đầu tiết mồ hôi nhờn. Mắt bắt đầu trông lờ mờ. Tai cảm giác nghe rất xa xăm. Muốn nôn mữa. Cơ thể rã rời dường như không còn tí hơi sức nào… Không nói ra nhưng tôi biết là nọc độc đã vào tới trung khu thần kinh rồi nó mới tác động toàn bộ lên cơ thể như vậy.
– Gánh thầy ra làng, tìm thuốc!
– Ra xóm lấy ghe chở thầy xuống bệnh viện Kim Long!
Mọi người bấn loạn, xôn xao góp ý. Nhìn những khuôn mặt thất sắc, lo âu của họ, tôi trấn tỉnh, cố gắng mỉm cười:
– Vô ích thôi, độc đã đi vào trung khu thần kinh rồi. Cứu chi cũng không kịp nữa. Thầy chấp nhận cái chết mà. Đừng sợ hãi.
Tôi nhờ lấy một tờ giấy và cây bút để viết dặn dò vài điều trước khi chết. Đại khái là kiếm chỗ sau đồi, đào hố chôn, không để lâu mà làm gì. Đừng làm phiền nhiều người. Dặn dò thư ký và thủ quỹ công trình chi tiêu như thế nào để hoàn thành công trình cầu Bạch Yến. Thế thôi. Chẳng còn gì để bận lòng.
Tuy nhiên, khi viết thế xong, tôi lại nghĩ: “Vô lý! Chết gì không chết lại chết vì một con rắn độc! Cầu Bạch Yến chưa làm xong. Rừng Thiền còn mênh mông công việc. Không thể chết khi ‘ước nguyện’ chưa thành! Mình phải sống! Cương quyết là mình không thể chết!”
Khi ấy, ý chí muốn sống bốc lên cao chót vót, như có một sức mạnh tiếp năng lực, tôi với chiếc gậy, chống và bước đi. Chỉ vài bước là gục ngã vì cơ thể không chịu sự sai khiến của ý chí. Cậu thanh niên đến giúp, tôi nói, “không”, hãy để tự ý thầy làm! Tôi tựa gậy đứng lại được, rồi lại bước đi. Lại gục ngã, lại đứng dậy. Cứ thế, cứ thế, tôi chống chọi sự “gục ngã” bằng tất cả sức mạnh bình sinh của ý chí. Cứ ngã, cứ đứng lên hoài như vậy. Cho đến khi đi được thì chừng đâu khoảng hai tiếng đồng hồ thì tôi vã mồ hôi ra, người nhẹ hẫng. Tôi cất cao lời chiến thắng:
– Thầy sống rồi! Mồ hôi vã ra là dấu hiệu nọc độc cũng theo đó mà đi ra. Thầy khoẻ lại rồi!
Một tuần sau, lũ rút, tôi ra chùa ngoài, mời bác sĩ quen lên xem. Vị ấy nói: “Thầy thoát chết một cách kỳ diệu, bây giờ chỉ cần tiêm thuốc chống ‘hoại tử’ mà thôi!”
Kỳ lạ là sau khi bị rắn cắn, suốt mấy năm dài tôi không hề bị cảm cúm hoặc bất cứ bệnh thời khí nào. Dường như nọc độc của rắn còn ẩn trong máu huyết, sống chung với máu huyết đã tạo nên sự “miễn dịch” cho cơ thể hay sao ấy!?
Kể lại chuyện trên, cốt ý tôi chỉ muốn nói rằng, bao nhiêu năm tu Phật, bây giờ tôi mới hiểu nghĩa “dục ái, luyến ái đeo níu các kiếp sống” là gì! Nó chính là “ý chí muốn sống”, “dục vọng muốn tồn tại” cảnh giới này hay cảnh giới khác. Ý chí đó, dục vọng đó rất mạnh mẽ, nó kéo theo toàn bộ các tâm sở. Nó là sức mạnh tăng thượng, điều khiển cơ chế vận hành thân tâm, đưa ta đi tới đâu theo ý muốn. Và dĩ nhiên, ý chí đó, dục vọng đó phải được nuôi dưỡng không ngừng nghỉ, nó liên tục, bền bỉ, làm cho các sát-na tâm tư tác (cetanā) sanh và diệt trên cùng một đối tượng, trong trường hợp của tôi là suốt hai tiếng đồng hồ, là tỉ tỉ tỉ… “ước muốn tồn tại”! Nó tạo nên một năng lực không gì cưỡng nổi. Ngược lại, nếu tâm thức tôi yếu ớt, dã dượi, bạc nhược thì nó sẽ như ngọn đèn tàn, cạn dầu, lụn bấc, nó sẽ tắt và tôi sẽ chết, đi theo dòng nghiệp.
Trong các kiếp sống sinh tử, do “dục vọng muốn sống. muốn tồn tại” ấy, “ý chí cường lực” ấy, mà nó đẩy chúng ta đi từ cảnh giới này sang cảnh giới khác.
Ghi chú:
(1) Tôi đoán chừng là vì ngoài trời mưa lạnh nên con rắn hổ đã tìm vào nhà và ẩn trong chăn. Do cả đêm nằm ngủ tôi chỉ giữ một tư thế, gần sáng, do mèo kêu, tôi trở mình, nghiêng người, giở mùng bỏ mèo ra ngoài. Chính khi cử động ấy, con rắn cảm giác bị tấn công nên nó liền phản ứng.
II- Bài thứ hai: Trặc ngón chân trỏ.
Cách đây nửa tháng, vào buổi chiều, khoảng 17, 18 giờ, ngày 30/10/2014, tôi đang ngồi “chò hõ” (chồm hổm) trên sàng nhà để đọc vài trang trong một quyển sách, tìm kiếm tư liệu cho một bài nghiên cứu. Ngước nhìn phía trước, cách chừng hơn thước, có một quyển sách khác, tôi với tay trái để lấy. Vì nó hơi xa nên tôi đã nhướn người quá đà làm cho mười ngón chân bị cụp, “quỵp” xuống. Do chân trái làm điểm tựa nên “một cảm giác thốn đau đã xẩy ra ở đấy”. Trở lại tư thế khi lấy được sách, tôi lần trang, đọc và không để ý đến nó nữa.
Khi xong việc, khoảng 21 giờ, cảm giác đau bây giờ nó mới phát lộ triệu chứng: Cái cụm 5 ngón chân trái hơi sưng sưng. Tôi cũng kệ, nằm bật đèn đọc sách. Hơi khuya, tôi nằm thở một chút rồi ngủ. Sáng ngày, cái bàn chân trái sưng to, vừa bỏ chân xuống giường là nó nhức đau, do máu tụ xuống chỗ đó. Thử giở chân lên cao thì nó bớt đau. Do tôi chưa hề bị như thế lần nào nên không rõ “vấn đề” gì xẩy ra nơi mấy ngón chân. Không phải gãy xương vì gãy xương thì đau chịu chi thấu! Có lẽ trật khớp chăng, tôi cũng không rõ.
Thế là sau đó, tôi chịu đựng cơn đau, nhức buốt suốt ba bốn ngày mặc dầu đã sử dụng đủ loại pháp đối trị như xoa bóp bằng thuốc đặc trị bong gân, trặc khớp của thầy võ, ngâm chân nước nóng có muối, hành hương; uống thuốc Tây kháng viêm… Tôi định đi chụp X quang xem thử bị cái gì ở trong đó, nhưng một đứa cháu là thầy “mằn” kinh nghiệm 30 năm lên xem và nói: “Ôn bị trật khớp một chút thôi, cháu sẽ trả lại vị trí cũ!” Tôi nói: “Nghe nói là đau lắm!” “Đau, dĩ nhiên rồi, nhưng chỉ mấy giây thôi!”
Tôi đồng ý! Nó lấy tay xem xét mấy ngón chân và bắt trúng chỗ ngón trỏ, nói là tìm ra chỗ rồi! Xong, nó thò mấy ngón tay phải lật qua lật lại! Trời đất, nó nói mấy giây mà tôi chịu đựng cơn đau gần một phút! Kinh khiếp! Tôi chịu trận, trân mình lên, răng cắn chặt, mồ hôi túa ra, nước mắt tự động chảy! Cuối cùng, dường như có nghe một cái “rắc” nho nhỏ, nó nói, xong rồi! Tôi thở phào, người nhẹ nhõm! Nó nói, vậy là ít hôm nữa sẽ lành thôi!
Quả thật vậy, đau nhức không còn nhưng chân còn sưng tấy, từ đây, tôi thường ngâm chân bằng nước nóng, muối và hành hương; và sau đó đắp “nha đam” cho nó mát. Hiện tại thì đi lui, đi tới nhè nhẹ được rồi!
Mấy ngày ngồi ngẫm ngợi! Lạ! Quái dị là cơn đau! Dường như mấy chục năm qua tôi không bị đau gì cả. Lục phủ ngũ tạng, tim mạch, áp huyết, đường, mỡ gì gì đó, xem ra, nó “im re”. Đây là lần thứ hai tôi đau nhức kể từ độ bị rắn độc cắn, cách đây gần 25 năm. Rắn độc cắn thì nọc độc nó đi ngay, đi thẳng vào máu huyết, tan ra trong máu huyết, nên không đau nhức bằng trặc khớp lần này.
Nói thì hơi quá nhưng sự thật tôi đã học được rất nhiều điều từ việc nho nhỏ này, tôi muốn chia sẻ với mọi người.
Thứ nhất, là đau, cơn đau. Tôi đau chút ít thôi, chưa được một phút. Trong chùa tôi có một vị sư, đau quanh năm, nhức buốt quanh năm, đủ thứ bệnh. “Thầy biết không – có một vị sư kể lại – Sư ĐT luôn vật vả, đau đớn, mỗi lần uống thuốc, uống luôn cả ‘nạm’ (nắm), thấy mà ớn!” Tôi nghĩ: Mình mới đau một chút mà cảm giác chịu đựng không nổi, huống chi người ta đau nhức quanh năm suốt tháng. Trước đây, sư ấy thường bị tôi la rầy, lúc nào cũng “xìu xìu, ểng ểng”! Bây giờ nghĩ lại, tôi thấy thương, tự dưng môt sự cảm thông bao la tràn ngập tâm hồn. Tôi chạnh nghĩ đến bao nhiêu người trên đời này bị đau đớn, bệnh khổ hành hạ, gấp trăm lần mình? Từ ý nghĩ này, các trạng thái tâm như tha thứ, cảm thông, tâm từ, tâm bi tuy không cố ý mà tự dưng chúng tự động khởi phát. Còn nữa, mình đau như thế nào, chúng sanh cũng đau như thế. Những hình ảnh thuở nhỏ hoang nghịch như bẻ chân châu chấu, bẻ càng cua hoặc bắn chim, câu cá, mổ giết gà, vịt… đúng là vô tri, vô trí, vô cảm một thời! Lạy Phật, nhờ tu Phật, chúng ta đã tránh được tội giết hại, đánh đập, hành hạ chúng sanh không thương xót, cách này hay cách khác.
Thứ hai, pháp nó đến! Nhân, duyên, quả gì đó nó đến rất lặng thầm, rất tình cờ! Bao nhiêu năm, do có tu tập chánh niệm, tỉnh giác, tôi thường đi lui đi tới, lên xuống nhiều bậc đá, luôn với sự cẩn trọng, chậm rãi nên rất khó “bất cẩn” vấp cái này, cái khác. Mình ngồi đọc sách mà! Hoá ra, “nó đến” dù mình đang làm việc nhẹ ở trong phòng, nó đến một cách không ngờ tới! Vậy thì sống giữa cuộc đời, với mọi tương giao, mình chẳng lường được cái gì; vả có thể cả hoạn nạn, tai ươn, bệnh tật… chưa biết sẽ xẩy ra lúc nào! Như đánh quần vợt, dường như mình luôn sẵn sàng đón đợi cú banh, chẳng biết nó sẽ rơi vào hướng nào! Câu kệ thơ của thiền sư Viên Minh chợt hiện ra:
“ Nói, làm thường thận trọng,
Luôn trọn vẹn chú tâm;
Lắng nghe, quan sát rõ,
Đến đi, pháp lặng thầm!”
Đúng là pháp đến nó lặng thầm thiệt!
Lại còn điều kỳ lạ nữa, không giải thích được, là trước đó 3 ngày, từ Lào về, tôi mua một cây gậy tre có tên là “trúc kim cương”! Mua gậy là điềm triệu cho cái ngón chân trặc này hay sao chứ? Không biết! Và còn biết bao nhiêu điều về nhân duyên quả xẩy ra trên đời này, cho chính mình, quả thật là tôi không biết gì hết, không dám biết gì hết!
Thứ ba, cái đau, cần phải có cái đau để xem thử cái tâm của mình như thế nào! Phải thật sự chiêm nghiệm nó! Những người tu tập minh sát thường nói rất giỏi, rất hay: “Xem cơn đau chỉ là cơn đau, nó chỉ là một cảm thọ thôi! Thọ có sanh thì thọ ấy có diệt!” Mà tôi, chính tôi cũng thường giảng cho thiền sinh như vậy! Bây giờ, khi cơn đau đến, do đau nhẹ, suốt mấy ngày, tôi mỉm cười với nó nên cái đau chỉ ở nơi chân chứ không ảnh hưởng gì đến cái tâm của mình cả. Nhưng khi “thợ mằn” lắc cái khớp lại thì nó lại khác! Nó đau kinh khiếp! Tôi trân mình chịu đựng chứ không mỉm cười nổi! Thế đấy! Vậy thì rõ ràng có những cái đau khác nhau! Có những cái đau mình “niệm” được, “niệm” là nó đi. Nhưng có những cái đau mình “niệm” nó không đi! Mình bất lực hoặc trân người chịu đựng! Tôi thấm thía câu kinh văn: “Sắc không phải là tôi, là tự ngã của tôi; và thọ… cũng vậy, không phải là tôi, tự ngã của tôi!” Chẳng “làm chủ” được cái gì cả!
Thứ tư, chuyện “rướn” người để lấy quyển sách! Rướn người là quá sức của cái thân! Cái gì quá sức là trật rồi! Lý trung đạo của nhà Phật không chỉ điều chỉnh tâm, điều chỉnh trí, tu tập, uống ăn, ngủ nghỉ mà còn cả tứ oai nghi nữa! Đừng như cái đồng hồ quả lắc, cứ rơi vào cực này rồi cực khác. Biết bao thảm hoạ trên cuộc đời vì những cái cực nầy! Từ rày, tôi phải lấy cái giáo nghĩa của trung đạo để áp dụng “tất tần tật” trong cuộc đời tu tập của mình, thân cũng như tâm.
Thứ năm, có thân thì có bệnh, có thân là có đau! Biết bao nhiêu năm tôi đã tự hào, ngã mạn mình không bệnh, không đau! Một câu trong 10 điều tâm niệm hiện ra: “Nghĩ đến thân thể thì đừng cầu không bệnh tật. Người không bệnh tật ắt dục vọng dễ sanh!” Lại nhớ lần đầu tiên khi tôn giả Mahā Kassapa vừa gặp đức Phật, ngài đã bị đức Phật giáo giới về 3 cái ngã mạn của ngài, thay cho hình thức thọ giới tỳ-khưu: Ngã mạn về thọ sanh, dòng tộc (jātimāna), ngã mạn về kiến thức, hiểu biết (ñāṇadiṭṭhimāna), ngã mạn về sắc thân xinh đẹp (kāyamāna). Trong liên tưởng ấy, tôi thấy mình bị “ngã mạn về sức khoẻ, ngã mạn vì vô bệnh!” chi phối trong nhiều năm nay mà không hề biết! Vô minh là vậy. Hễ thấy ai đau, ai bệnh thì tôi tự mỉm cười hoặc chê trách, chế nhạo họ, coi thường họ: Nào là ăn chi cho nhiều, ăn nhiều thì toàn bộ cơ thể làm việc mệt! Ai bảo ăn cho nhiều mỡ nhiều béo vào bây giờ sinh ra đủ thứ bệnh! Nào là ai bảo sinh hoạt vô chừng, vô đỗi làm chi! Nào là không biết tu thiền giữ tâm yên tĩnh, khí huyết, âm dương thuỷ hoả điều hoà. Người có tu tập không bao giờ bị bệnh cả! Điều tôi nói dù nó là đúng, không sai, nhưng không nên vậy, đừng nên tự hào, ngã mạn một đỗi đường, một giai đoạn đời người, vì có thân thì có bệnh, đó là sự thật ngàn đời!
Thật là thấm thía! Thế thì “cái đau cái bệnh” là tốt, vì nó đang điều chỉnh lại cái gì đó ở nơi ta đã vận hành sai trật! Nó đúng trong mọi trường hợp. Về phương diện tu tập hướng thượng, nó làm yên lặng bớt một số kiết sử khi ta biết chiêm nghiệm để học bài giác ngộ!
Thật là tuyệt vời! Chỉ cái ngón chân đau, “chuyện nhỏ như con thỏ” mà tôi học được nhiều bài học lợi lạc cho bản thân trên đường tu tập của mình. Vậy thì theo tôi, sau khi đọc kinh sách, chỉ cần nhớ cái tinh yếu, còn nên quên tất cả. Hãy bỏ quên tất cả để học “pháp thực” ngay nơi sự tương quan căn trần thức, một “hạt bụi” phát sanh cũng được nhìn ngắm và quan sát một cách cẩn cẩn, nghiêm túc thì lợi lạc cho việc “giác ngộ, giải thoát” cho mình biết là chừng nào!
MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNH
CÕI THƠ MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNH
Tâm Nhiên
Minh Đức Triều Tâm Ảnh sinh năm 1944 tại Hương Thủy, Thừa Thiên Huế là một bậc tài hoa đủ điệu : Làm thơ, viết văn, viết biên khảo, viết thư pháp, nghệ nhân tạo vườn cảnh, đồng thời là một nhà sư theo truyền thống Phật giáo Nguyên thủy Nam tông với pháp hiệu Giới Đức. Xuất gia năm 1973 ở Vũng Tàu rồi làm du tăng khất sĩ qua nhiều xứ miền Sài Gòn, Đà Lạt, Nha Trang, Đà Nẵng… Cuối năm 1974 dừng gót lữ phong trần dưới chân đèo Hải Vân, lập cảnh chùa Huyền Không thơ mộng bên triền núi, nhìn ra biển trời lộng gió trùng khơi gần Lăng Cô xanh thẳm. Năm 1978 vì sự đổi thay của thời cuộc, Huyền Không đành chấp nhận dời về Hương Trà, Huế, nhà thơ cùng với sư Pháp Tông và Huệ Tâm tạo dựng vườn thiền mới theo phong cách Nhật Bản ngoạn mục bên một con sông lau lách, cạnh làng quê yên ả dặt dìu :
Chùa quê trăng ngủ mái rêu
Đất nghèo hoa nở sớm chiều tự do
Qua sông ta chẳng lụy đò
Hú dài một tiếng bỏ bờ rong chơi
Chơi rong một trận bồng bềnh trên sóng gió bể dâu cho đến năm 1989, hưởng ứng phong trào trồng cây xanh, Minh Đức Triều Tâm Ảnh lên núi cao, vào tận rừng sâu heo hút Hòn Vượn, chọn một khu đất hoang sơ rộng rãi có triền đồi, hồ nước, lập nên phong cảnh Huyền Không Sơn Thượng. Bằng con mắt thẩm mỹ, dưới bàn tay nghệ sĩ sắp đặt tài tình đã biến nơi hoang dã, thiên nhiên thành cảnh trí thanh nhã đẹp lạ lùng. Giữa khung cảnh núi rừng tịch mịch, tĩnh lặng, thấp thoáng vài mái thảo am, ẩn hiện mấy nhịp cầu ván gỗ qua hồ nước xanh ngần, phất phơ trúc biếc, thảo hoa và có lẽ đó cũng là một tác phẩm nghệ thuật tuyệt vời, ấn tượng nhất ở nơi sơn cùng thủy tận này. Hồn thơ, hồn nhạc hòa quyện cùng hồn thiêng sông núi mỹ lệ, để thi sĩ tiêu dao ngày tháng từ thuở nọ cho đến bây giờ. Thơ và hơi thở cùng chan chứa giữa lòng núi trầm sâu tĩnh lặng :
Lắng nghe hơi thở vào ra
Ngàn năm thân thế sương sa đầu cành
Lắng nghe hơi thở mong manh
Sợi thương sợi nhớ dệt thành mộng con
Lắng nghe hơi thở mỏi mòn
Trái tim nhịp đập mãi còn lang thang
Lắng nghe hơi thở dịu dàng
Câu thơ đại định non ngàn vắng không
Rỗng rang nhập cảnh giới tâm nguyên thiền định, thở bầu không khí khoáng đãng vùng thượng sơn, bồng tênh trên tinh thần hân hoan là niềm cảm hứng, sức sáng tạo dào dạt, bền bỉ suốt bao nhiêu năm trường vẫn liên tục trào dâng không ngớt thơ văn bát ngát diệu thường :
Tháng ngày ăn móc uống sương
Lá đùa nắng nhẹ rễ vươn gió ngàn
Non sâu ẩn giả mơ màng
Gặp thời hợp tiết cao sang hiển màu
Bước ra thấy núi tọa thiền
Bước vô thấy Phật an nhiên mỉm cười
Trong ngoài chẳng thấy chữ lời
Mình còn ham viết bụi rơi cửa sài
Viết và viết miên man, sáng tạo và sáng tạo không ngừng nghỉ, vì dường như thi nhân đã chạm được mạch ngầm tâm tư, cảm xúc vi diệu cùng niềm hạo nhiên chi khí làm bừng dậy, cháy lên rực ngời ngọn lửa thi ca trong tim hồn rộn rã, hòa âm thâm viễn mênh mông :
Chữ qua sông nghĩa qua sông
Mượn cây bút sậy vượt dòng văn thơ
Đèo mây trăm cụm dật dờ
Vượt qua vượt tít hoang sơ thế tình
Từ ngày đem lửa lên non
Đốt kinh soi chữ lối mòn mù sương
Nhen tim ấm áp khu vườn
Đồi đông hạo khí tùng vươn ngọn tùng
Tùng xanh, trúc biếc, thông ngàn quyện vờn gió lộng không gian tịch mịch, lồng bóng hồ trăng thanh tịnh cùng hợp tấu, ngân nga quá nhiệm mầu, vô lượng nghĩa thanh tân mới lạ, hòa chan diệu ảo bao nhạc khúc thiên nhiên :
Chuông sương tỉnh thức non triền
Kinh chiều cây cỏ an thiền đã lâu
Trăng khuya chữ trắng sơn đầu
Lời vô lượng nghĩa nhiệm mầu thắng hương
Tri âm chút gió thanh lương
Cỏ cây tươi thắm am hương ngát ngào
Tri âm chim lượn non cao
Thả rơi chiếc bóng hồ ao thấy mình
Thi nhân lấy núi rừng hoang dã làm bạn tâm đầu ý hợp cố tri, vì thế ngày đêm nhàn nhã tha hồ trao gởi xiết bao nỗi niềm tâm sự, cứ mênh mang trút xuống, tuôn trào nguồn mạch phong quang sáng tạo và kết tinh thành những tác phẩm tâm tình sinh động, độc đáo vô lường. Trước những tác phẩm đồ sộ, dày cộm dài mười mấy ngàn trang đủ thể loại biên khảo, truyện ngắn, truyện dài, thi ca như : Chèo Vỡ Sông Trăng, Đá Trắng Chiêm Bao, Lửa Lạnh Non Thiêng, Chữ Cháy Bờ Lau, Giun Dế Hư Vô Và Hạt Lửa Xanh, Bụi Trăng Và Lửa, Đá Rác Và Cỏ Thơm, Miền Mây Trắng, Tình Mẹ Mùa Báo Hiếu, Đóa Hồng Vàng Của Phật, Kinh Lời Vàng, Sương Khói Đường Thi ( thơ ) Ngàn Xưa Hương Bối, Bức Tranh Thay Đổi Thế Giới, Người Trồng Hoa Và Chàng Tu Sĩ, Một Cuộc Đời Một Vì Sao, Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt, Chuyện Của Thiền, Thanh Gươm Ba La Mật, Hành Hương Tâm Linh, Thắp Lửa Tâm Linh ( truyện ) Học Phật Căn Bản, Người Cư Sĩ Ưu Việt, Rèn Luyện Thơ Văn, Phật Học Tinh Yếu, Sử Phật Giáo Thế Giới, Sử Phật Giáo Ấn Độ và Trung Quốc, 38 Pháp Hạnh Phúc, Tiếng Hú Trên Đỉnh Cô Phong ( biên khảo )… mang chở nội dung tư tưởng nhân văn và Phật học phong phú, vô cùng giá trị, vì thế Viện nghiên cứu Phật giáo Nguyên Thủy Dallas-fort Worth ở Texas Hoa Kỳ đã trân trọng tuyên dương, cấp phát văn bằng danh dự Tiến sĩ Văn chương cho thi nhân vào năm 2011.
Trong các tác phẩm đó, nổi bật lên là tập thơ Đá Rác Và Cỏ Thơm ( 5 tập ) gồm 1000 bài lục bát và truyện dài Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt ( 6 tập ) dài hơn ba ngàn trang, viết về cuộc đời và tư tưởng Đức Phật. So với Ánh Đạo Vàng của Võ Đình Cường hay Đường Xưa Mây Trắng của Nhất Hạnh thì Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt của Minh Đức Triều Tâm Ảnh dài nhất, tái hiện lại được toàn bộ sinh hoạt xã hội Ấn Độ từ thời Đức Phật ra đời đến xuất gia và thành đạo. Đây là một công trình vĩ đại, chứa đầy tâm huyết, phải có tấm lòng tha thiết say mê văn học Phật giáo mới thực hiện nổi. Văn chương, nghệ thuật, thi ca phải chăng là tiếng hát của con người từ muôn thuở đến muôn nơi trên mặt đất ? Tiếng hát ấy đã bay dậy rung ngân qua cung bậc nhân sinh vừa ngậm ngùi, trầm thống vừa hùng tráng thênh thang, hòa quyện nhau trong cõi lòng tâm can, chan chứa giữa mộng đời vĩnh viễn thiên thu :
Thương đời hạt bụi phiêu du
Thương mình trăm chuyện lu bù thế gian
Lên non nhặt ánh trăng vàng
Đề câu thơ tặng hạc ngàn qua chơi
Từ tình thơ nguyên vẹn đó, từ những cảm hứng xuất thần nhập diệu, thi nhân bước xuống dòng sông tâm thức, lung linh tĩnh lặng mà Chèo Vỡ Sông Trăng trên con thuyền hồn phiêu nhiên qua khắp mọi miền sông dài biển rộng, rong chơi thong thả và ung dung nhàn hạ. Đã tự bao giờ, người thi sĩ lên đường dấn mình vào cuộc khám phá cánh đồng vô tướng, khu rừng huyền mặc tâm linh. Chuyện ấy khác hẳn với chuyện chinh phục vũ trụ hay khai khẩn thiên nhiên, bởi vì cảnh giới đó không thể chỉ trỏ, cầm nắm gì được cả mà chỉ thầm trực nhận, cảm nhận ra thôi, nên ghềnh và thác, suối và đèo ở đây là thác ghềnh của tâm cố chấp vào âm thanh, là đèo núi của tâm nô lệ dính mắc vào sắc tướng, cần phải vượt qua và vượt qua :
Qua sông bèn gọi con đò
Nôn nao lá rụng hai bờ sắc không
Qua sông giữa cuộc phiêu bồng
Mới hay trăm sự trăng lồng nước xuôi
Khi thấy được mọi sự ở đời như trăng lồng trong bóng nước chảy trôi thì bao nhiêu phiền não, khổ đau trĩu nặng oằn vai trong cõi người ta bỗng chốc tan biến và tất nhiên, nhà thơ liền thấy nhẹ nhõm cất bước tung tăng, chẳng còn chi nặng nề trầm trọng âu sầu. Sầu tư chi nữa, khi biết liền lập tức cái phù du ảo mộng của muôn sự việc ở đời một cách rốt ráo “vạn pháp giai không, duyên sinh như huyễn” rồi, nhất là cảm nhận được cái mặt mũi xưa nay của chính mình từ lúc chưa sinh ra đời, thành thử tự nhiên mỉm cười tỉnh thức, vững chãi thảnh thơi :
Hóa ra chỉ thở và cười
Là trăm niềm nỗi một đời xa bay
Hóa ra tỉnh thức phút giây
Là ta thấy rõ mặt mày chưa sinh
Thấy là thấy liền tức khắc, chẳng đợi mai mốt, tương lai hay vô lượng kiếp sau. Ồ cái mặt mũi thật ấy ở ngay nơi chính mình, hãy nhận lấy đi thôi, đừng có vọng tưởng, chạy tìm kiếm bên ngoài tận đâu đâu nữa. Xưa nay cũng nhiều cuộc lữ vạn lý du mù mịt rồi, thi nhân rong ruổi dặm ngàn viễn xứ, cứ trầm tư khắc khoải, mải mê kiếm tìm trong vô vọng quắt quay… Bây giờ thì dường như đã thấp thoáng thấy hiện mặt mày ban sơ nên dừng gót phiêu bạt giang hồ, trở về với cái thân yêu, cái bây giờ và ở đây :
Đã đi khắp thế gian này
Niềm vui nỗi khổ tựa tày chiêm bao
Tiền thân mặt mũi hư hao
Về chùa gặp lại trăng sao lòng mình
Mải mê giữa chốn chợ chiều
Vai đau tóc lấm đã nhiều gian truân
Ta bèn rũ áo phủi chân
Dặm không đủng đỉnh chiếc thân nhẹ hều
Nhẹ hều, nhẹ nhõm, nhẹ thênh trên con đường mây trắng phong quang, thi nhân vẫn nhẹ nhàng như sương như khói, thong dong giữa tuế nguyệt phiêu bồng. Lòng vô vi vô trú, ngao du suốt bốn mùa mưa nắng, lãng đãng qua lại chốn phù sinh, nhịp nhàng lên xuống, vào ra thanh thản như chơi :
Xoa tay việc đạo việc đời
Nghe từ cõi bụi vẳng lời giác không
Vẫn thân thế vẫn phiêu bồng
Nắm tay đại dụng chơi rong tháng ngày
Ngày tháng hòa âm nhập cuộc. Cuộc chơi ở đây chính là cuộc lữ thi ca qua khắp biển rộng sông dài giữa vũ trụ mênh mông. Không có một thi nhân nào từ vạn cổ đến nay mà không lấy nhật nguyệt thiên địa, trăng nước gió mây làm chỗ giao du qua lại, bởi vì mặt trời, mặt trăng, mặt đất trần gian ngút ngàn sông biển, mây gió bao la kia là ẩn ngữ thi ca, hàm dung tất cả tinh túy, mật ý mà người thi sĩ muốn bày tỏ với cõi tạm trần ai :
Như mây lãng đãng sông dài
Và như hoa nắng trên vai ửng màu
Và như tóc trắng trên đầu
Hạo nhiên gót lữ qua cầu nhân sinh
Bốn phương gọi gió mát về
Tâm trong cảnh lặng bồ đề ngát hương
Mở ra cánh cửa yêu thương
Nụ cười hơi thở mộng trường mang mang
Giữa nhân sinh trường mộng, mỗi người trong chúng ta có lẽ ít nhiều đều chạm mặt với nỗi buồn cô đơn khốc liệt, riêng với những tâm hồn thi nhân thượng đẳng, họ sẵn sàng đón nhận sự cô đơn như đón nhận một tri âm, tâm đắc, ăn nằm với cô đơn một cách thân mật, đậm đà. Chính sự cô đơn là nguồn cảm hứng sáng tạo vô biên, khi người nghệ sĩ thưởng thức được hương vị cô liêu thoảng ngát trong lòng :
Lên non xanh liễu cuộc bồng
Cô liêu sương khói người không thấy người
Đạo tình quên nghĩa quên lời
Chung trà mây nước nụ cười bối hương
Cô liêu đứng giữa sa mù
Nửa lòng lạnh trắng nửa thu nhạt mờ
Cô liêu đá cô liêu thơ
Và cô liêu nữa chơ vơ bốn bề
Cô liêu, cô đơn rờn lạnh quạnh vắng hoang liêu, người thi sĩ thì thầm khuya sớm chuyện chi mà trăng tỏ rạng ngời nỗi lòng thiết tha như thế, để cho thỉnh thoảng xuống núi chơi rong, có bài thơ sương khói làm quà tặng cho dâu bể vô thường, lòng bồi hồi gió cát và mỉm nụ cười với hoa cỏ khơi vơi :
Thơ về phố chợ rong chơi
Đề câu quán khách dặm lời khói sương
Có khi chữ lấm tro hường
Có khi bụi trắng cúng dường bể dâu
Dẫu như mây hiện giữa trời
Chút tình trăng nước tạc lời làm vui
Mười phương gió cát bồi hồi
Mười phương hoa cỏ nụ cười mênh mông
Trên dặm trường sương gió ra đi, thi nhân vô phân biệt trí giữa quên và nhớ cũng như giữa có và không, giữa mộng và thực, giữa sống và chết, giữa mê và ngộ… Hai trạng thái chỉ cách nhau kẽ tóc đường tơ nhưng thực ra, chẳng khác nhau gì cả mà hòa nhập tương dung, tương tức ra vào :
Đạo tình nửa nhớ nửa quên
Chừ ta ở lại giữa miền bụi bay
Thơ còn mây trắng phương tây
Thì lòng thi sĩ tháng ngày còn xanh
Đạo đời một mối khôn phân
Tình thiên thu nọ mà gần mà xa
Dòng lên dòng xuống cũng là
Đầu nguồn cuối biển sương pha mấy màu
Mấy màu sương pha hỡi dòng đời suối đạo ? Thôi chớ bận tâm, đừng có mơ màng mộng mị chi thêm nữa mà hãy bất động, rỗng rang với lòng như thị như nhiên. Tuyệt diệu làm sao ! Bước đi không chỗ trú của đạo và thơ giữa ta bà huyễn mộng phù du :
Ngàn xưa Đạo xuống thảo lư
Trăng vàng ghé đọc tương tư mấy mùa
Ngàn sau Thơ xuống hiên chùa
Chỉ nghe lá rụng gió lùa lạnh hiu
Dìu dặt thần hồn giữa trăm miền quyến rũ đầy âm thanh và màu sắc mà nhà thơ chẳng mắc dính, buộc ràng, trói cột vào bất cứ gì vì đã giã từ, buông xả sạch trơn hết rồi. Đến nỗi bỏ luôn phồn hoa đô hội, trút hết mộng mị thị thành để đơn thân độc mã, một mình một bóng lặng lẽ, âm thầm lên tận chốn non cao giữa rừng sâu rú thẳm, cắt cỏ lợp tranh, trồng hoa vàng gầy trúc biếc, dựng lên cảnh thần tiên Huyền Không Sơn Thượng. Một cảnh giới thuần túy thiên nhiên, phưỡng phất ngợp đầy chất thiền vị thi ca giữa trời thơ đất mộng, bồng tênh lênh láng lãng đãng sương mù và mây trắng chập chùng bay lượn suốt sớm trưa chiều tối phiêu diêu. Tiêu dao tiêu sái, nhàn nhã thưởng ngoạn trăng ngàn, bàng bạc ngân nga hòa quyện suốt đêm ngày :
Gánh mộng lên non thả gió bay
Đem thơ vào núi gởi cho mây
Thân ta sương khói phiêu bồng cõi
Biết dính vào đâu giữa chốn này ?
Giữa chốn nhân gian đầy hỗn độn, lộn nhào đảo hoán mọi giá trị tinh thần, nhất là giá trị đạo đức, hầu như sụp đổ tan hoang hết trơn rồi, chẳng biết trách ai đây ? Thôi thì, thi nhân nhẹ nhàng vất bỏ ngoài tai những chuyện đời thị phi, xem thường mọi sự như được và mất, khen và chê, sướng và khổ, danh thơm và tiếng xấu… nên lặng lẽ từ tạ, giã biệt bỏ đi. Có chi đâu mà vướng bận dính mắc, chẳng có gì phải hy vọng mong cầu :
Tạ từ xuôi ngược bể dâu
Tạ từ danh tướng sắc màu thế gian
Non sâu đã lặng tiếng đàn
Đêm đêm nguyệt trúc gió ngàn vô thanh
Hai bờ trang giấy vô hư
Chữ bơi ở giữa tưởng tư cuộn dòng
Ta bèn giọt mục sang sông
Đỡ phiền bát nhã đỡ công sắm đò
Bỏ lên non cao, tìm vào rừng sâu rú thẳm với phong độ khinh an, thoát vượt mọi tham si, thi nhân lắng nghe cung đàn vô thanh thong thả vọng về. Để rồi, mỗi sớm tinh sương óng ả hay những buổi chiều tà hoang lương, cô tịch, bình yên rảo bước, dạo vòng quanh qua nhịp cầu Lãm Thương dịu ngát hương sen rồi rong rêu qua hồ Thủy Nguyệt xanh ngần bóng núi trầm hùng, nhẹ mỉm cười với mấy vần thơ đung đưa thư pháp bên hiên Am Mai Trúc hay thỉnh thoảng, đôi khi cùng tâm sự với hoa vàng trúc biếc, lung linh huyền ảo dưới ánh trăng ngà long lanh lấp lánh :
Qua vườn thăm thảm cỏ xanh
Thăm câu lục bát thăm cành liễu trơ
Có khi trăng động mặt hồ
Bóng hồn lẫn với bóng thơ bồng bềnh
Bốn mùa xanh biếc trúc ơi !
Ruột không tiết thẳng đứng trời hạo nhiên
Quanh năm nhả khí cao hiền
Còn tung xác lá án thiền tặng ta
Đá sỏi hỏi han, chia sẻ niềm hạo nhiên chi khí, trúc biếc hiền từ nhẹ hát lời ca. Hóa thân làm cỏ lau xào xạc ven sông, làm hồn hoa cỏ may lay động bóng chiều tà óng ả, làm giọt sương mai óng ánh, làm đá tảng triền đồi, hòa âm vang những lời vu vơ thơ nhạc cõi ban sơ phơi phới :
Vu vơ ngồi thở vu vơ
Vu vơ đi đứng vu vơ nói cười
Vu vơ mượn chữ mượn lời
Vu vơ cấu tứ đất trời vu vơ
Có khi tâm đá thốt lời
Có khi hồn cỏ dạo chơi thung triền
Cũng là thơ cũng là thiền
Sương treo công án một miền lá xanh
Xanh ngát ngàn thông lồng lộng giữa truông đồi mây gió hoang vu, không còn phân biệt chuyện đời, chuyện đạo, biết bao chuyện đúng sai, phải trái, thị phi… Chỉ biết rằng chút thân bèo bọt này đã trải qua vô lượng kiếp, trùng trùng sinh diệt giữa biển trầm luân, nghiệp báo lưu linh rồi :
Hôm qua mộng thấy tụng kinh
Tỉnh ra mới biết chính mình là trăng
Bao nhiêu cát của sông Hằng
Là bấy nhiêu kiếp đã từng tử sinh
Thấy sinh tử như những bọt sóng nhấp nhô nổi trên mặt biển hiện tượng, có sinh có diệt đồng thời cũng nhận biết bản thể của sóng là nước, vốn không sinh không diệt thì lòng trạm nhiên rỗng lặng, chẳng còn sợ hãi gì nữa. Bụi hồng khói đỏ, cỏ vàng lá xanh hay niết bàn sinh tử, thiên đường địa ngục…đều tùy duyên biểu hiện chập chùng như hoa đốm giữa hư không mà thôi. Vậy thì, hãy sống trọn vẹn, hít thở bầu trời tự tánh Không rỗng lặng, tuyệt nhiên chẳng nên hoài công, phí sức tiêu diệt hoa đốm làm chi nữa. Vì thế, cuộc đời người thi sĩ kia tự nhiên thanh thoát, sáng ngời như một bài thơ bất tuyệt giữa đỉnh cao và hố thẳm tâm linh đã về đã tới :
Bài kinh đi suốt cuộc đời
Đêm nghe gió nổi tiếng lời sạch không
Chừ đây một cõi phiêu bồng
Chỉ còn ta đứng mênh mông bóng mình
Muôn xưa bóng bọt đăng trình
Muôn sau bóng bọt tấp ghềnh chiêm bao
Chiêm bao và thực tại đều huyền đồng trong một trạng thái tự tại tự do. Có lẽ thường xuyên sống trong thực tại mới mẻ đang là như thị đó, cho nên thi nhân vẫn im lặng sáng tỏ, buông bỏ xuống hết trăm công nghìn việc, vắng vẻ mọi nỗi ưu phiền :
Trần gian trăm việc tạm yên
Thơ đề góc núi đầy hiên nắng vàng
Gió trăng thế sự không bàn
Giấc thiền lặng lẽ nhẹ nhàng tình không
Rỗng rang nhàn nhã, bao nhiêu khê, tế toái chuyện thế gian chẳng còn bận tâm, luận bàn chi thêm nữa cho mệt, chỉ còn biết hứng thú làm thơ, thường xuyên viết thư pháp, đàm đạo, uống trà cùng hư vô hố thẳm và lắng nghe trăng khuya đọc thơ chơi giữa ngàn sao chiếu diệu vời :
Trăng khuya tìm đọc thơ rơi
Núi rừng đã ngủ đất trời còn ta
Mời hư vô cạn chung trà
Giọt sương thinh lặng la đà hiên văn
Còn hoa thì bướm tìm về
Còn kinh còn chữ tỉnh mê còn bàn
Còn lý sự còn lan man
Ra sông úp chiếc đò ngang khỏe liền
Tuyệt diệu là khỏe liền như thế đó mà có mấy ai thực hiện được gì đâu ? Thôi thì, một khi lãnh hội được điều ấy rồi thì cứ việc thong dong, thoải mái đến đi, vì đã thấy được Phật tính siêu tuyệt huyền hòa :
Ai từ sắc tướng tìm ta
Ai từ âm tiếng gọi ma cõi ngoài
Ta là hơi thở lai rai
Là trăng là gió như lai bốn mùa
Bốn mùa đều biểu hiện Như lai tự tính giữa trời đất, nhật nguyệt, thiên nhiên. Tiếng thơ lang thang trong thế giới phiêu lãng của ngôn từ, đốt cháy lên từng con chữ, từng khái niệm hữu vi, vô vi làm bừng sáng tư tưởng thượng thừa, vượt thoát nhị nguyên, huyễn ảo chiêm bao :
Dấu chân trên cỏ hôm nào
Vẫn còn sương ướt lời chào cố tri
Kẻ hữu vi người vô vi
Mênh mang mây nước cuộc đi cuộc về
Tay cầm một đóa đông phương
Niềm vui hoa nở con đường hữu duyên
Nước mây chan chứa đạo thiền
Yêu thương khổ đế não phiền trăng soi
Trần ai còn khổ đế, ta bà còn khổ lụy là thi nhân vẫn còn tiếp tục làm thơ và hành thiền. Tiếng thơ ấy đang cưu mang một tính mệnh quê hương Việt Nam lớn lao như lời nhận xét tinh tế của thi sĩ Phạm Công Thiện : “Đọc đi đọc lại mấy lần, mấy chục bài thơ của Triều Tâm Ảnh, tôi có linh cảm rằng thi sĩ đang cưu mang một Tính Mệnh lớn lao mà có ít thi sĩ Việt Nam nào hiện nay có thể đủ trầm lặng đạo lực cưu mang nổi. Không phải vì những tên tuổi bi tráng như Nietzsche hay Rimbaud mà tác giả yêu thích đã khiến tôi nhận xét như trên mà vì chính những gì loáng thoáng đàng sau những dòng thơ kỳ diệu của thi sĩ.
Thi nhân ở đây đồng thời cũng là một đạo nhân. Thi nhân đang đứng giữa trung tâm điểm cơn bão tố địa cầu, đứng giữa Triêu dương của Đông phương và Tịch dương của Tây phương, đứng giữa Tây nhập và Đông khởi của Hoa Nghiêm Kinh… Như những đám mây trôi nổi ở vùng mặt trời lặn, tôi xin gởi đôi dòng linh cảm này về thi sĩ và tạ ơn được đọc những bài thơ sâu sắc tuyệt đẹp, ít thấy trong thi ca Việt Nam hiện đại.”
Cõi thơ Minh Đức Triều Tâm Ảnh hay cõi thơ thanh thoát an nhiên đó đã khơi mở biết bao cảm hứng cho những nghệ sĩ thi nhân, nhất là cảnh giới kỳ tuyệt Huyền Không Sơn Thượng kia, như có một thần lực vô hình, chiêu cảm những bước chân du tử, lang thang sĩ, những hành nhân, thi sĩ đi về hân hoan, nôn nao hồn reo vui rộn rã :
Huyền Không Sơn Thượng rất xa
Đã qua làng xóm còn qua núi đồi
Ở đây vườn cảnh xanh tươi
Lan rừng nở rộ chim trời hót vang
Đợi làn mây tía qua hiên
Chung trà hương sói kết duyên bạn bầu
Khói sương ý hợp tâm đầu
Lá hoa cười nói chữ câu xóa liền
Huyền Không Sơn Thượng ơi ! Lang thang sĩ này cũng từng về nơi chốn ấy nhiều lần rồi, thường lặng lẽ một mình lên nằm mắc võng đong đưa giữa hai đầu nhật nguyệt một vài hôm để lắng nghe tiếng thơ tịch mịch, vang rền mênh mang khắp đất trời. Có bận đi với thi sĩ Trần Đới, Phạm Thư Cưu, Hải Tuệ, Kiều Trung Phương, vài lần cùng với Nguyễn Văn Nho, chọn một đêm rằm lên ngắm trăng Huyền Không Sơn Thượng. Sương khuya lãng đãng hòa quyện trăng ngàn xanh biếc lùa vào thảo am ngan ngát hương trầm, chỉ còn nghe gió thiên thu đồng vọng trong giọng ngâm thơ của Nguyễn Văn Nho truyền cảm, âm vang xao động quanh bờ suối hoa vàng và tôi cũng đọc một bài thơ mới vừa cảm tác tặng cho mấy cành trúc la đà, xào xạc phất phơ :
Mờ sương khói quyện trên đồi núi
Lữ khách về thăm chốn non xa
Huyền Không Sơn Thượng ồ diễm tuyệt
Về đây như về tới quê nhà
Xả buông xuống hết bên ghềnh đá
Rung động hồ xanh cảnh thanh bình
Nghe chim suối hót hòa hoa cỏ
Trăng ngàn bàng bạc giữa lung linh
Ngưng thần lặng nắm cây tâm bút
Vẽ một trời thơ ngát phiêu nhiên
Nghiêng hồn bay vút cô phong đỉnh
Chạm đáy thiên thu cõi nhiệm huyền
Dạo gót quanh sườn Am Mai Trúc
Ven rừng tịch mịch lối thanh lương
Bước chiều phiêu lãng ngàn mây trắng
Lặng cảm điều chi quá diệu thường
Tâm Nhiên
Thơ Minh Đức Triều Tâm Ảnh ( chữ nghiêng ) trích trong các tác phẩm :
Chèo Vỡ Sông Trăng. Hội Văn Học Nghệ Thuật Thừa Thiên Huế xuất bản 1993
Chữ Cháy Bờ Lau. Thuận Hóa xuất bản 2004
Giun Dế Hư Vô Và Hạt Lửa Xanh. Văn Học xuất bản 2008
Bụi Trăng Và Lửa. Văn Học xuất bản 2011
Đá Rác Và Cỏ Thơm. Văn Học xuất bản 2013