Recent Pages: 1, 2 3, 4,
Thiền sư Thích Nhất Hạnh: “Viết thư pháp là một môn thiền định”
Thiền sư Thích Nhất Hạnh chia sẻ: “Trong thư pháp của tôi, có mực, trà, hít thở, chánh niệm và tập trung. Viết thư pháp là một môn thiền định…”
Nâng chén trà trên hai tay, Thiền sư Thích Nhất Hạnh chậm rãi nhấp từng ngụm nhỏ nhẹ. Khuôn mặt ngài thư thái. Thời gian như ngưng đọng. Mấy trăm khách mời đang chăm chú xem các đệ tử của ngài bày bút nghiên, mực, giấy dó lên bàn viết, háo hức chờ đợi cái thời khắc ngài biểu diễn thư pháp thiền nhưng trước mắt vị thiền sư lúc này, dường như chỉ có sự hiện diện của chén trà nóng đang tỏa hương.
Nhấp ngụm trà thứ ba, cảm nhận trọn vẹn cái hương thơm, vị đượm của trà, Thiền sư Thích Nhất Hạnh nghiêng chén, chậm rãi châm một ít trà vào nghiên mực rồi nhẹ nhàng cầm ngọn bút, chấm mực, viết. Toàn thân ngài tĩnh lặng, bàn tay ngài với những ngón tay thanh mảnh chậm rãi đưa từng nét bút đều đặn. “This is it”. (Tạm dịch: Nó đây rồi. Cái mà ta tìm kiếm đây rồi”. “Present moment, wonderful moment” (An trú trong hiện tại, giây phút đẹp tuyệt vời). “Breathe and smile” (Thở và cười)…
Viết xong mỗi bức, ngài mỉm cười nâng bức thư pháp cho quan khách xem. Cả khán phòng bừng lên niềm ngạc nhiên, thích thú và hạnh phúc trước nguồn tuệ giác của vị thiền sư già qua từng nét chữ đậm chất thiền.
Sau hàng loạt các cuộc triển lãm thư pháp thiền gây tiếng vang lớn ở Pháp, Đức, Canada, Thái Lan, Đài Loan và Hồng Kông, đêm ngày 5 tháng 9 năm 2013, Cuộc triển lãm với chủ đề “Thiền thư pháp: Nghệ thuật chánh niệm của Thiền sư Thích Nhất Hạnh” đã chính thức khai mạc tại ABC home, New York (Mỹ), thu hút sự quan tâm đông đảo của những người mộ điệu và giới truyền thông quốc tế.
Đây cũng chính là một trong những hoạt động nằm trong chương trình Hoằng pháp của Thiền sư Thích Nhất Hạnh kéo dài suốt hai tháng trên đất Mỹ. Hàng trăm tác phẩm được trưng bày chính là kinh nghiệm thiền định trong cuộc sống cho những người thưởng ngoạn. “Không có bùn, không có sen”, “Đi như một dòng sông”, “Hòa bình trong mình. Hòa bình trong thế giới”… Những dòng chữ ngắn gọn, giản dị mà sâu sắc ấy đã trở thành những thiền ngữ chứa đựng trong đó giáo lý căn bản của đạo Phật, nhắc nhở mọi người những niềm vui luôn song hành cùng nghệ thuật sống chánh niệm.
“Trong thư pháp của tôi, có mực, trà, hít thở, chánh niệm và tập trung. Viết thư pháp là một môn thiền định. Tôi viết các từ hoặc câu mà có thể nhắc nhở mọi người về thực hành chánh niệm. Khi viết thư pháp, tôi luôn tìm cách viết như thế nào để có thể chế tác và duy trì được năng lượng niệm, định, tuệ và từ bi trong suốt thời gian viết.
Khi bắt đầu vẽ một vòng tròn, tôi thở vào và vẽ nửa vòng tròn trong khi thở vào, rồi tôi thở ra và vẽ nửa vòng còn lại trong khi thở ra. Trong suốt thời gian vẽ vòng tròn, tôi cũng đồng thời ý thức rằng trong bàn tay này của tôi có bàn tay của cha, của mẹ, của ông bà tổ tiên. Vì vậy mà khi tôi vẽ vòng tròn này thì cha, mẹ, ông bà tổ tiên và cả các vị thầy tâm linh của tôi cũng đang vẽ cùng tôi. Và vì chúng tôi cùng nhau vẽ vòng tròn này nên không hề có một cái ngã riêng biệt. Do vậy, chỉ vẽ một vòng tròn thôi nhưng ta có thể có được tuệ giác về vô ngã (anatta)” – Thiền sư Thích Nhất Hạnh chia sẻ.
Chính sức mạnh từ phương pháp thiền tập và tuệ giác đó đã làm cho nghệ thuật thư pháp của Thiền sư Thích Nhất Hạnh trở nên đặc biệt và được nhiều người yêu thích trên khắp thế giới. “Mọi người đều muốn đem năng lượng của Thầy về nhà. Bức thư pháp Thầy viết chứa đựng năng lượng mà Thầy đã chế tác ra, đó là năng lượng hiểu biết, thương yêu và chánh niệm”. Một quan khách người Pháp đã hoan hỉ chia sẻ sau khi mua bức thư pháp: “Breathe, you are alive” (Thở đi con và ý thức rằng con đang sống).
Tại cuộc triển lãm, Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã đề nghị những người tham dự buổi triển lãm thư pháp thực tập im lặng và giữ chánh niệm trong suốt buổi tham quan. “Ta cần duy trì hơi thở chánh niệm và đem tâm trở về với thân. Khi ta thực sự có mặt thì ta có thể để cho năng lượng của bức thư pháp đi vào trong trái tim ta. Trong chiều sâu tâm thức của ta có hạt giống của hiểu biết, thương yêu, hạt giống của niềm vui, hạt giống của tuệ giác, của giác ngộ. Nếu chúng ta để cho năng lượng của bức thư pháp đi vào và tiếp xúc với hạt giống tuệ giác trong ta thì chúng ta sẽ có được sự giác ngộ mà chúng ta mong muốn. Vì vậy khi chúng ta đi thật chậm qua các bức thư pháp và để cho năng lượng của bức thư pháp đi vào trong ta và tiếp xúc, tưới tẩm những hạt giống đẹp và lành nơi ta thì chúng ta sẽ được chuyển hóa và trị liệu trong thời gian đi xem các tác phẩm thư pháp. Nửa giờ trong phòng triển lãm là nửa giờ thiền tập. Nếu làm được như vậy thì khi bước ra khỏi phòng triển lãm, chúng ta có thể trở thành một con người hoàn toàn mới”.
Phóng viên đã có cuộc trò chuyện với thiền sư Thích Nhất Hạnh bên lề Cuộc triển lãm tại New York:
PV: Thiền sư bắt đầu thực hành thư pháp từ bao giờ ạ?
Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Tôi bắt đầu viết thư pháp vào năm 1994 chỉ với mục đích là làm phương tiện để nuôi dưỡng các học trò của mình trong nghệ thuật sống chánh niệm. Thư pháp của tôi không xuất sắc gì mấy. Vậy mà tập viết hoài ngó cũng được. Càng viết, chữ càng ngó được hơn.
Năm 1999, trong chuyến thăm Trung Quốc, một phật tử có mang theo nhiều giấy, bút và mực. Anh xin tôi viết mấy chục tấm để bán lấy tiền cúng dường chùa tổ Lâm Tế, thuộc thành phố Thạch Gia Trang, tỉnh Hà Bắc. Anh nói đa số những người trong phái đoàn đi Trung Quốc là người Tây phương nên tôi có thể viết chữ tiếng Anh. Tôi chiều lòng anh. Và số tiền bán chữ đã lên tới hàng ngàn đô-la. Phái đoàn đã cúng dường toàn bộ số tiền cho chùa tổ Lâm Tế để giúp vào quỹ mua thêm đất và xây cất thêm tăng viện. Hòa thượng trụ trì Hữu Minh rất cảm động.
Vào lễ giáng sinh năm đó, nhiều minh tinh màn bạc nổi tiếng Hollywood như Marlon Brando, Jack Nicholson, Sean Penn… cũng nhận được nhiều bức thư pháp tôi viết do bạn hữu của họ tặng. Mỗi khi trao đổi thư pháp với các vị tọa chủ các chùa lớn ở Trung Quốc, Hàn Quốc, tôi cũng viết chữ Tây cho lạ. Số thư pháp tôi đã viết, tính đến nay ước chừng cũng hơn 10.000 tác phẩm. Số tiền thu được dùng để tài trợ cho các chương trình nhân đạo tại các nước đang phát triển.
PV: Ở Việt Nam, thư pháp phát triển khá mạnh. Song hầu hết các nhà thư pháp Việt đều viết bằng chữ Hán. Tại sao thiền sư lại chỉ viết thư pháp bằng tiếng Anh và tiếng Việt?
Thiền sư Thích Nhất Hạnh:Chữ Hán tôi viết rất ít vì hiện giờ ít người đọc được chữ Hán. Tôi thấy những bức chữ Anh, chữ Việt hoặc chữ Pháp lồng kính treo lên cũng đẹp vô cùng và khi đọc, người ta hiểu liền. Tôi cũng có viết nhiều câu đối chữ Việt và cả chữ Âu Mỹ nữa. Tôi chỉ viết những chữ mà khi treo lên người ta có thể thực tập theo được mà thôi. Có thể kể tên một số tác phẩm thư pháp được mọi người yêu thích nhất như: Breathe, you are alive (Thở đi, bạn đang là sự sống màu nhiệm). “The tears I shed yesterday have becam rain” (Nước mắt ngày xưa nay đã thành mưa”. “Be beautiful, be yourself” (Bạn chỉ đẹp khi là chính bạn). I have arrived, I am home (Con đã về, con đã tới)…
Mỗi tác phẩm thư pháp đều là một đề tài thiền tập. Chẳng hạn như bức thư pháp “Be beautiful, be yourself”. Ta phải là chính ta thì ta mới đẹp. Ta không cần phải trở thành một ai khác. Ví như một đóa sen, tự thân nó đã rất đẹp, nó không cần phải cố gắng để biến thành hoa hồng hay một loại hoa khác mới đẹp. Trong mỗi chúng ta đều có hạt giống của niềm vui, của thương yêu và hạnh phúc. Nếu chúng ta để cho những hạt giống này được biểu hiện thì ta sẽ trở thành một đóa hoa đẹp trong vườn hoa của nhân loại.
Hay bức thư pháp “Let go and be happy” (Buông bỏ để có hạnh phúc). Buông bỏ ở đây nghĩa là buông bỏ những ham muốn, hờn giận, và buông bỏ luôn cả ý niệm của ta về hạnh phúc. Mỗi người trong chúng ta đều có một ý niệm về hạnh phúc. Chúng ta nghĩ rằng chúng ta cần phải có cái này hoặc cái kia thì mới có thể hạnh phúc. Nhưng chúng ta đâu biết rằng: chính cái ý niệm về hạnh phúc đó lại là chướng ngại để chúng ta có hạnh phúc thực sự. Nếu chúng ta can đảm buông bỏ ý niệm đó thì hạnh phúc sẽ đến với chúng ta ngay lập tức.
PV: Bức thư pháp tiếng Việt nào của thiền sư được người Việt yêu thích nhất?
Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Bức mà Phật tử Việt Nam yêu thích nhất là bức có ba chữ: “Thở đi con”. Ai cũng muốn thỉnh một bức về treo trong phòng khách để khi có chuyện bất an thì nhớ mà thực tập. Còn khi bình thường mà thực tập thì nuôi dưỡng thêm hạnh phúc đang có.
Có những bức tôi viết trọn một vài câu thơ hay cả bài thơ. Những câu thơ trong Truyện Kiều có thể hiểu theo nghĩa thiền quán cũng rất được hâm mộ. Ví như câu: “Bây giờ rõ mặt đôi ta. Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao”. Hay câu: “Trời còn để có hôm nay. Tan sương đầu ngõ vén mây giữa trời”. Có một cặp tân hôn xin chữ, tôi đã cho câu: “Trước sau cho vẹn một lời. Duyên ta mà cũng phúc người phải không?, tôi đổi một hai chữ cho thích hợp.
PV: Những bức thư pháp của thiền sư bao giờ cũng đậm chất thiền và chuyên chở tuệ giác của đạo Phật. Có điều gì khiến thiền sư trăn trở trong việc truyền bá đạo Phật cho giới trẻ trong thời buổi hiện đại này không?
Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Tôi muốn nói chuyện đạo Bụt. Đạo Bụt tại châu Á nói chung và Việt Nam nói riêng. Đạo Bụt nếu không được làm mới để có thể đáp ứng được nhu cầu đích thực của người thời nay thì đạo Bụt sẽ từ từ vắng mặt, nghĩa là sẽ chết như ông đồ xưa trong bài thơ “Ông đồ” của Vũ Đình Liên.
Phải giảng dạy đạo Bụt như thế nào để tuổi trẻ bây giờ có thể áp dụng được vào trong đời sống hàng ngày của họ, chuyển hóa được khổ đau, khai thông được bế tắc, xây dựng lại được tình thâm. Lễ bái, cầu phước và tín mộ không đủ. Tuổi trẻ không muốn đến chùa chỉ để đốt nhang, đốt vàng mã, vái lạy và tụng những kinh mà họ hoàn toàn không hiểu. Buổi công phu sáng gần hết là bằng tiếng Phạn, có tính chất của Mật Tông, mà lại là tiếng Phạn phiên âm tiếng Hán – Việt xa lắc với nguyên âm. Buổi công phu chiều thì chủ yếu là để cầu sinh Tịnh Độ.
Không mấy ai hiểu được và đọc được kinh chữ Hán. Vậy mà ta không có can đảm đem hai buổi công phu dịch ra quốc văn để hành trì. Ta sợ người ta đàm tiếu, chê bai là bỏ gốc rễ. Ta có bỏ gốc rễ đâu. Ta chỉ chăm sóc và làm mới cho gốc rễ thôi để cho cội cây xưa có được sức sống mới đâm lên những chồi mới, nếu không cây sẽ chết.
Cách đây chừng vài trăm năm, người ta đã từng bĩu môi chê chữ Nôm là quê mùa, là mách qué. “Nôm na là cha mách qué”. Người ta bảo người đứng đắn và người trí thức chỉ dùng chữ Hán thôi. Vậy mà đại thi hào Nguyễn Du đã sáng tác nên kiệt tác “Truyện Kiều” bằng chữ Nôm và đã tạo nên được một niềm tin lớn cho quốc dân. Không dùng súng đạn và gươm giáo mà thi sĩ đã xây dựng được thành lũy vững chãi cho nền độc lập dân tộc. Độc lập chính trị chỉ có thể bền vững khi có độc lập văn hóa. Cụ Nguyễn Du là một ông đồ không bao giờ già, không bao giờ chết. Hồn của cụ sống mãi trong hồn của người trẻ bây giờ. Bài học đó há không đủ cho chúng ta sao? Con cháu chúng ta bỏ chùa, bỏ đạo gốc tổ tiên chạy theo những trào lưu từ ngoài tới. Lỗi đó là của ai?
Làm mới đạo Bụt, áp dụng ngay những pháp môn của đạo Bụt nhập thế, sử dụng ngay tiếng Việt để tụng niệm trong hai buổi công phu là điều rất cần thiết. Chúng ta đừng làm như ông đồ xưa, dần dần vắng mặt trong cuộc đời. Chúng ta phải tái sinh ngay lập tức để trở thành ông đồ nay. Chỉ có ông đồ nay mới làm thỏa mãn được những nhu yếu của người ngày nay. Từ thế kỷ thứ 14, vua Trần Nhân Tông và thiền sư Huyền Quang đã thấy được sự thực này. Các vị đã bắt đầu sáng tác bằng tiếng Việt, sử dụng chữ Nôm.
Ở Triều Tiên, ngày xưa cả nước đi theo đạo Bụt. Vào đầu thế kỷ này, chỉ còn dưới 50% dân chúng là Phật tử. Giới trẻ đi theo ngoại lưu nhiều như thác lũ. Lý do là đạo Bụt bên đó quá bảo thủ và còn rất kỳ thị phụ nữ. Ta cầu xin xác vị tôn đức trong sơn môn ta nghĩ lại cho con cháu được nhờ. Đạo Bụt không thể không hiện đại hóa.
Tại Tây phương, nhiều người đang muốn cho đạo Ky tô được hiện đại hóa nhưng họ chưa thành công vì thái độ thủ cựu và giáo điều của giới chức sắc bề trên. Nhiều nhà thờ vắng bóng tín đồ. Người xuất gia rất hiếm chỉ vì người ta bảo thủ quá, không chịu làm mới, không chịu cách mạng giáo lý và giáo chế. Đạo Bụt có tinh thần cởi mở tự do, dễ làm mới hơn nhiều. Ta có thể thành công trong vài thập niên nếu chúng ta tỉnh thức. Chúng ta không có lý do gì để không thành công.
PV: Xin cảm ơn thiền sư!
Nguồn: Radio Việt Nam
Đại học Hồng Kông vinh danh Thiền sư Thích Nhất Hạnh
Tác giả : Làng Mai
Sáng ngày 13/3/2014, tại thiền đường Nước Tĩnh, xóm Thượng Làng Mai, Giáo sư Lap-Chee Tsui, Viện Trưởng (Vice Chancellor and President) Trường Đại Học Hồng Kông đã trao bằng Tiến sĩ Danh Dự trong lĩnh vực khoa học xã hội cho Thầy Làng Mai – Thiền sư Thích Nhất Hạnh để vinh danh những đóng góp của Thầy cho nền hòa bình thế giới.
Trong bài diễn văn tại buổi lễ, Giáo sư Michael Wilkinson thay mặt Ban Giám học của Trường đã phát biểu rằng: “Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã dành trọn cuộc đời mình cho sự nghiệp nhân đạo và hòa bình trên thế giới. Thầy thực sự là một bậc thầy lỗi lạc và là nguồn cảm hứng lớn lao cho chúng ta (“Zen Master Thich Nhat Hanh has dedicated his life to humanitarian work and world peace. He is a truly remarkable and inspirational man”).
Đại học Hồng Kông đã gửi thư mời Thầy sang Hồng Kông để nhận bằng Tiến sĩ Danh dự nhân Đại hội lần thứ 190 của trường (được tổ chức vào ngày 18/3/2014). Tuy nhiên, do thời gian này ở Làng Mai đang có khóa tu mùa xuân nên Thầy không sang được. Vì vậy mà đoàn đại biểu của Trường (gồm 7 người) đã bay từ Hồng Kông sang để trao tặng Thầy tấm bằng danh dự này.
Đại học Hồng Kông là một trong những trường đại học hàng đầu châu Á và xếp thứ 26 trên bảng tổng sắp các trường đại học danh tiếng trên thế giới (theo đánh giá của Quacquarelli Symonds World University Rankings năm 2013). Bằng Tiến sĩ Danh dự là học vị cao quý nhất mà Đại học Hồng Kông trao tặng để vinh danh các cá nhân có những đóng góp to lớn cho nhân loại và cho thế giới. Tổng tống Bill Clinton, Mẹ Teresa, Tổng thống Nelson Mandela, Giáo sư Hồ Thích (Trung Quốc), Cựu Thủ tướng Singapore Lý Quang Diệu, và Vua Edward VIII (nước Anh) là những người đã được Đại học Hồng Kông trao tặng học vị cao quý này.
Thông điệp dành cho các bạn trẻ
Trong bầu không khí ấm áp, thân tình, với sự có mặt của tứ chúng Làng Mai, Thầy đã có lời chia sẻ với đoàn đại biểu của Đại học Hồng Kông cũng như với các sinh viên của trường (được chuyển ngữ từ nguyên bản tiếng Anh):
“Chúng tôi rất cảm kích và biết ơn trường Đại học Hồng Kông đã dành cho chúng tôi vinh dự này. Cảm ơn quý vị đã trân quý và tin tưởng chúng tôi. Chúng tôi xin đón nhận tấm bằng danh dự này như một nghĩa cử của tình huynh đệ, lòng từ bi và nhân ái của quý vị. Chắc quý vị cũng biết Làng Mai không chỉ ở nước Pháp mà còn có mặt ở khắp nơi. Chúng tôi đã giúp thành lập hàng ngàn tăng thân thực tập chánh niệm trên thế giới. Ở Hồng Kông cũng đã có trung tâm tu học của Làng Mai. Chúng tôi không hoạt động như một cá nhân mà luôn hoạt động như một Tăng thân. Vì vậy, vinh dự lớn lao này cũng thuộc về mọi thành phần của tăng thân.
Trong đạo Bụt, chúng tôi thực tập tuệ giác vô ngã. Nếu chúng tôi có thể làm được điều gì để giúp thế giới này thì đó là nhờ có tăng thân. Nếu không có tăng thân, chúng tôi không thể làm được gì cả. Đức Bụt sau khi thành đạo đã nhận ra điều này, vì vậy mà việc đầu tiên Ngài làm là đi tìm những thành phần để xây dựng tăng thân. Bụt là một bậc thầy về xây dựng tăng thân. Bụt biết rằng nếu không có một tăng thân thì Bụt khó có thể thực hiện được ước nguyện giúp đời của mình. Vì vậy mà Bụt đã dành rất nhiều thời gian để xây dựng tăng thân. Ngay trong năm đầu tiên sau khi thành đạo, Bụt đã thành lập được tăng đoàn với 1250 xuất sĩ và tăng đoàn đó không ngừng lớn mạnh. Lần cuối cùng gặp Bụt, Vua Ba Tư Nặc đã thưa với Bụt là mỗi khi nhìn thấy tăng đoàn là vua lại có thêm niềm tin lớn nơi Bụt.
Khi tôi gặp mục sư Martin Luther King lần đầu tiên tại Chicago năm 1966, chúng tôi đã cùng nhau chia sẻ về việc xây dựng tăng thân, bởi vì Mục sư Luther King cũng biết rằng nếu không có một tăng thân thì chúng tôi không thể nào thực hiện được giấc mơ của mình. Thay vì sử dụng từ “tăng thân” (Sangha), Mục sư Luther King dùng từ “cộng đồng yêu quý” (beloved community). Lần thứ hai gặp nhau tại Geneva, chúng tôi cũng tiếp tục thảo luận về chủ đề này. Tôi đã nói với Mục sư Luther King là người Việt Nam xem Mục sư như một vị đại Bồ tát, một người suốt đời tranh đấu cho nhân quyền, cho công bằng xã hội. Tôi rất vui vì đã nói được điều đó với Mục sư Luther King, vì chỉ ba tháng sau đó thì Mục sư bị ám sát và không còn có thể tiếp tục sự nghiệp xây dựng tăng thân được nữa. Tôi đang ở New York thì nghe tin về vụ ám sát. Chuyện này làm cho tôi bị ốm một thời gian. Và tôi tự hứa với mình rằng tôi phải tiếp tục sự nghiệp xây dựng tăng thân, không chỉ cho tôi, cho chúng ta mà còn cho cả Mục sư Luther King nữa.
Điều mà tôi muốn nhắn gửi đến các bạn trẻ là: nếu các bạn có một giấc mơ lớn và muốn cho giấc mơ đó thành tựu thì các bạn cần có một tăng thân. Tăng thân là một đoàn thể mà ở đó có tình huynh đệ và sự hòa hợp. Muốn xây dựng được tăng thân, các bạn phải đầu tư rất nhiều thời gian và tâm sức mới có thể làm được. Gia đình cũng có thể là một tăng thân, trường học của các bạn cũng có thể là một tăng thân. Nếu có tình huynh đệ, có hiểu và thương thì chúng ta có thể thực hiện được giấc mơ của mình. Đó là lý do vì sao việc xây dựng tăng thân là dành cho tất cả mọi người. Dù anh là giám đốc của một công ty, anh cũng có thể biến công ty của mình thành một tăng thân – một đoàn thể mà ở đó mọi người có cơ hội học cách xây dựng tình huynh đệ, chế tác hiểu biết và thương yêu, chứ không phải chỉ là nơi để tìm kiếm lợi nhuận mà thôi. Chúng ta cần những nhà doanh nghiệp tham gia vào sự nghiệp xây dựng tăng thân để làm cho thế giới của chúng ta trở nên tốt đẹp hơn.
Làng Mai chúng tôi cũng là một trường học. Những gì chúng tôi học ở đây là làm thế nào để chế tác năng lượng bình an, chế tác niềm vui và hạnh phúc trong thân tâm. Chúng tôi cũng học cách xử lý những khổ đau trong tự thân. Bởi vì chúng tôi biết rằng nếu chúng tôi có thể làm được điều đó cho chính mình thì chúng tôi cũng sẽ giúp được cho những người khác. Vì vậy ở Làng Mai, thầy và trò cùng học với nhau, chúng tôi muốn xây dựng một tăng thân, một môi trường lành mạnh nơi mọi người có thể được nuôi dưỡng và chuyển hóa. Chúng tôi cùng nhau tổ chức những ngày quán niệm, những khóa tu để giúp cho mọi người đến tu học, thực tập và chuyển hóa, để có thể vơi bớt khổ đau trong lòng và tìm lại được niềm vui sống. Các khóa tu kéo dài trong một tuần, hoặc 2 – 3 tuần, hoặc 3 tháng. Chúng tôi luôn chứng kiến những chuyển hóa và trị liệu xảy ra trong các khóa tu.
Sự thực tập chế tác bình an, niềm vui và hạnh phúc trong đời sống hàng ngày cũng như thực tập xử lý khổ đau, sử dụng chất liệu khổ đau để chế tác hạnh phúc, đó chính là nguồn thức ăn rất lành mạnh nuôi dưỡng chúng tôi. Sử dụng bùn để trồng sen là nội dung học hỏi và thực tập của chúng tôi ở đây. Vì vậy mà việc học ở trong lớp chỉ là một phần nhỏ trong sự thực tập của chúng tôi. Chúng tôi còn học cách làm việc chung với nhau, học chơi đá banh, chơi bóng rổ với nhau, học nấu ăn hay tổ chức khóa tu cùng nhau. Trong khi làm việc hay chơi cùng nhau, chúng tôi chế tác tình huynh đệ, sự hòa hợp và bình an. Chính điều này nuôi dưỡng chúng tôi và nuôi dưỡng cả những người đến và thực tập cùng với chúng tôi.
Vì vậy mà điều đầu tiên tôi muốn nhắn gửi đến các bạn trẻ ngày nay là: nếu các bạn có một giấc mơ trong cuộc đời và muốn giấc mơ đó được thành tựu thì hãy xây dựng một tăng thân.
Điều thứ hai tôi muốn nhắn gửi đến các bạn trẻ là: hãy mở rộng tình thương của mình để ôm trọn cả hành tinh này, không nên giới hạn tình thương của mình chỉ với đất nước và dân tộc mình mà thôi. Chính tôi đã nhận ra rằng quê hương tôi là cả hành tinh này, cả trái đất này. Tôi không giới hạn tình thương của mình trong một dải đất ở châu Á có tên là Việt Nam mà thôi. Tôi đã được chuyển hóa và trị liệu rất nhiều nhờ vào cái thấy này. Có thể tình thương trong bạn còn quá nhỏ bé, bạn cần làm cho tình thương đó lớn rộng ra để bao trùm cả trái đất này. Đó là tình thương của một vị Bụt, tình thương của những bậc đại nhân như Mahatma Gandhi, Martin Luther King, Mẹ Teresa, v.v. ”
Nguồn: Làng Mai
Thiền sư Thích Nhất Hạnh
Thích Nhất Hạnh là một thiền sư, giảng viên, nhà văn, nhà thơ, nhà khảo cứu, nhà hoạt động xã hội, và người vận động cho hòa bình. Ông sinh ra ở Thừa Thiên-Huế, miền Trung Việt Nam, vào ngày 11 tháng 10 năm 1926, xuất gia theo Thiền tông vào năm 16 tuổi, trở thành một nhà sư vào năm 1949. Pháp hiệu “Thích” được sử dụng bởi các nhà sư Việt Nam, nghĩa là họ là một phần của dòng tu Thích Ca. Ông là nhà lãnh đạo Phật giáo có ảnh hưởng lớn thứ hai ở phương Tây chỉ sau Đạt-lại Lạt-ma. Ông là người đưa ra khái niệm “Phật giáo dấn thân” (engaged Buddhism) trong cuốn sách Vietnam: Lotus in a Sea of Fire của ông.
Thiền sư Thích Nhất Hạnh được sinh ra với tên húy là Nguyễn Xuân Bảo ở Thừa Thiên (miền trung Việt Nam) vào năm 1926. Vào năm 16 tuổi ông xuất gia ở chùa Từ Hiếu gần Huế, nơi ông thọ giáo với Thiền sư Thanh Quý Chân Thật. Tốt nghiệp Viện Phật học Bảo Quốc ở miền Trung Việt Nam, Thích Nhất Hạnh tu học thiền theo trường phái Đại thừa của Phật giáo và chính thức trở thành một nhà sư vào năm 1949. Thích Nhất Hạnh bây giờ được công nhận là một thiền sư và là lãnh đạo tinh thần của chùa Từ Hiếu và các tu viện liên quan khác. Ông là tổ của nhánh Từ Hiếu đời thứ 8 của dòng Liễu Quán trong đời thứ 42 của phái thiền Lâm Tế Dhyana (Lin Chi Chan 臨濟禪, hay Rinzai Zen trong tiếng Nhật). Vào ngày 1 tháng 5 năm 1966 tại chùa Từ Hiếu, Thiền sư Chân Thật trao ấn khả cho Thích Nhất Hạnh để từ đây ông trở thành một thiền sư (thầy dạy về thiền). Thích Nhất Hạnh đã phối hợp kiến thức của ông về nhiều trường phái thiền khác nhau cùng với các phương pháp từ truyền thống Phật giáo Thượng tọa bộ, những nhận thức sâu sắc từ truyền thống Phật Giáo Đại thừa, và vài phát kiến của ngành tâm lý học đương đại phương Tây để tạo thành cách tiếp cận hiện đại của ông đối với thiền. Thích Nhất Hạnh đã trở thành một người có ảnh hưởng quan trọng đến sự phát triển của Phật giáo phương Tây.
Vào năm 1956 ông là Tổng biên tập của Phật giáo Việt Nam, tờ báo của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Vào thập niên 1960, ông thành lập Trường Thanh niên Phụng sự Xã hội (School of Youth for Social Services – SYSS) ở Sài Gòn, một tổ chức từ thiện xây dựng lại các làng bị bỏ bom, xây dựng trường học và các trạm xá, và giúp các gia đình bị trở thành vô gia cư trong Chiến tranh Việt Nam. Ông cũng là một trong những người thành lập Viện Đại học Vạn Hạnh và Nhà xuất bản Lá Bối. Viện Đại học Vạn Hạnh trở thành một viện đại học tư thục danh tiếng tập trung các nghiên cứu về Phật giáo, văn hóa và ngôn ngữ Việt Nam. Nhất Hạnh dạy giáo lý Phật giáo và Bát-nhã-ba-la-mật-đa (Prajnaparamita). Trong một buổi gặp mặt vào tháng 4 năm 1965, đoàn sinh viên Vạn Hạnh đưa ra thông điệp “lời kêu gọi vì hoà bình”. Nội dung chính của lời kêu gọi là “đã đến lúc hai miền Bắc-Nam của Việt Nam họp lại để tìm một giải pháp chấm dứt chiến tranh và đem lại cho mọi người Việt Nam cuộc sống hoà bình với lòng tôn trọng lẫn nhau”.
Ông đã đến Hoa Kỳ nhiều lần để nghiên cứu và diễn thuyết tại Viện Đại học Princeton và Viện Đại học Cornell, và sau này giảng dạy tại Viện Đại học Columbia. Mặc dầu vậy, mục đích chính cho các chuyến đi ra nước ngoài (Mỹ và Âu Châu) của ông trong thời gian này vẫn là để vận động cho hòa bình. Ông kêu gọi Martin Luther King, Jr. công khai chống lại Chiến tranh Việt Nam, và thuyết giảng với nhiều người và nhiều nhóm về hòa bình. Vào năm 1967, King đề cử Thiền sư Thích Nhất Hạnh cho Giải Nobel Hòa bình. Nhất Hạnh dẫn đầu phái đoàn Phật giáo đến Đàm phán hòa bình Paris. Là một trong những người thầy về Phật giáo ở phương Tây, những lời dạy và các phương pháp thực hành của Thích Nhất Hạnh thu hút nhiều người đến từ các quan điểm về tôn giáo, tâm linh và chính trị khác nhau. Ông đưa ra cách thực hành “chánh niệm” (sự lưu tâm đúng đắn – Pali: Sati; Sanskrit:smṛti स्मृति; tiếng Anh: mindfulness), thường được điều chỉnh cho phù hợp với tri giác phương Tây.
Năm 1966, ông lập ra Dòng tu Tiếp Hiện (“Tiếp” có nghĩa tiếp xúc, tiếp nhận, “Hiện’” có nghĩa thực hiện; tên tiếng Anh là The Order of Interbeing, tiếng Pháp là L’ordre de l’interêtre), và thiết lập các trung tâm thực hành và các thiền viện khắp trên thế giới. Nơi cư ngụ của ông là Tu viện Làng Mai ở vùng Dordogne thuộc miền Nam nước Pháp. Ông du hành khắp thế giới thuyết giảng và tổ chức các khóa tu thiền. Sau nhiều năm không được phép quay về Việt Nam, ông được về lần đầu tiên vào năm 2005. Nhất Hạnh vẫn tiếp tục các hoạt động vận động vì hòa bình. Ông đã tổ chức các khóa tu thiền cho người Israel và người Palestine, khuyến khích họ lắng nghe và học hỏi lẫn nhau; thuyết giảng kêu gọi các nước đang tham chiến hãy đình chiến và đi tìm các giải pháp bất bạo động cho các mâu thuẫn của họ; và tổ chức diễu hành hòa bình ở Los Angeles vào năm 2005 được tham dự bởi hàng ngàn người.
Nguyễn Thành An (Tổng Hợp)
Thơ mừng ngày tiếp nối của Thầy
(Oct – 11 – 2018)
TIẾNG CHUÔNG NGÂN
“Dừng lại đi con”
Khi tiếng chuông vẫn còn bu-uông, hay binh-boong ngân mãi
Gặp chuông nào thì cũng nên dừng lại
Để trở về với thực tại xung quanh.
Những ồn ào triền miên
Những tính toan nhuốm muộn phiền không dứt
Dừng lại đây – một phút giây hạnh phúc
Có mặt cho mình, có mặt cho nhau
Tiếng chuông thức tỉnh nhiệm màu
Thở chậm, đều và sâu
Nghe thiên nhiên đất trời cùng hòa nhịp
Mình và thiên nhiên là một
Quyện hòa và rong chơi
Thở vào – một dòng sông
Sóng bâng khuâng hiền hòa tươi mát
Thở ra tâm thanh thản
Như mây trời nương gió hát phiêu du.
Thở vào – nhẹ nhàng thu
Hôn lên trái na, thị, hồng trong vườn chín rộ
Thở ra – hoa sen nở
Rất an nhiên thanh khiết giữa bùn lầy
Thở vào – một mầm cây
Ung dung vươn dưới trời ấm nắng
Thở ra – thong dong bước
Trên con đường hoa trắng níu chân thơm
Giản đơn thế thôi – nuôi dưỡng một tình thương
Bằng hơi thở của an vui, hạnh phúc
Tiếng chuông ngân – hay tiếng gọi của Bụt
Đưa ta về gặp được chính ta…
(Lương Đình Khoa)
THẦY TÔI
THIỀN SƯ THÍCH NHẤT HẠNH VIÊN TỊCH
.
.
.
.
.
.
.
.
TS Thích Nhất Hạnh
.
.
.
Powerful images from Thich Nhat Hanh’s
Funeral Procession & Cremation |
Huế, Vietnam | 29 01 2022
Toàn cảnh cung thỉnh xá lợi, tro cốt Thiền Sư Thích Nhất Hạnh về Tổ đình Từ Hiếu (Huế)
Uploaded by Huế Của Ta
Lễ Rước Xá Lợi Và Lễ Rải Tro
Của TS Thích Nhất Hạnh Tại Tu Viện Mộc Lan,
Làng Mai tại Mỹ (22.3.2022)
Uploaded by Làng Mai
Sư ông căn cặn các học trò về hậu sự của mình
.
.
.
Đỉnh trầm xông ngát ý thiền môn
Lung linh nến ngọc ngời sao điểm
Thanh tịnh. Trần gian sạch tủi hờn.
Chầm chậm xuân về lòng đất chuyển
Nhạc trời thanh thoát rộn muôn phương
Tâm linh một thoáng bừng giao cảm
Lặng hết bao nhiêu lớp sóng cồnTrời đất hân hoan mừng nắng dậy
Một đàn em nhỏ rộn yêu thương
Quần điều áo lục theo chân mẹ
Hái lộc mùa xuân chật ngả đường.
_ Sư Ông Làng Mai _
Nhất tâm đảnh lễ Tân Viên Tịch, Tự Lâm Tế Tông Tứ Thập Nhị Thế, Liễu Quán Pháp Phái Đệ Bát Thế, Từ Hiếu Tổ Đình Niên Trưởng Trú Trì, Mai Thôn Đạo Tràng Quốc Tế Khai Sơn, Huý Thượng Trừng Hạ Quang, Tự Phùng Xuân, Hiệu Nhất Hạnh Thiền Sư, Nguyễn Công Hoà Thượng Giác Linh.
The International Plum Village Community of Engaged Buddhism announces that our beloved teacher Thich Nhat Hanh has passed away peacefully at Từ Hiếu Temple in Huế, Vietnam, at 00:00hrs on 22nd January, 2022, at the age of 95. We invite our global spiritual family to take a few moments to be still, to come back to our mindful breathing, as we together hold Thay in our hearts in peace and loving gratitude for all he has offered the world.
Namo Buddhaya
Cuộc đời 1 vì sao
.
.
.
.
,
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
CPD
CÙNG NHAU BÊN THẦY NGÀY TẾT KỶ HỢI – 2019
Tăng thân khắp chốn có mặt với nhau mùng 1 Tết để kính chúc sức khỏe đến Sư Ông kính thương.
The Plum Village sangha around the world, reunited on the First day of Tet to present our respect and health wishes to dear Thay.
Thông điệp Ngày Tiếp nối
Các con đã tiếp nối Thầy được bao nhiêu?
Ở Làng Mai, chúng ta không nói “Mừng ngày sinh nhật” mà nói “Mừng ngày tiếp nối” (Continuation Day). Tiếp nối cái gì? Và ai tiếp nối ai? Hôm nay chúng ta quán chiếu về sự tiếp nối của thầy trong thầy và trong các con của thầy, xuất sĩ cũng như cư sĩ. Các con tiếp nối thầy nghĩa là sao? Sự tiếp nối có hai phần, nơi thân tâm mình và nơi thân tâm những người được tiếp nhận những gì mình truyền trao. Bụt có dạy về trao truyền như sau: người trao truyền, người nhận trao truyền và vật được trao truyền là một, tam luân không tịch. Không có chủ thể trao truyền, không có người nhận trao truyền, chỉ có sự trao truyền, thế thôi.
Các con phải thực sự tiếp nối thầy trong từng hơi thở và từng bước chân. Suốt sáu mươi năm qua thầy đã liên tục trao truyền những kinh nghiệm, những thao thức và những hoài vọng của thầy cho bao nhiêu người qua cách thầy nói năng, đi đứng, ăn uống và chấp tác trong chánh niệm, qua những cuốn sách thầy đã viết, qua những lời thầy thuyết giảng, hoặc trước quần chúng đông đảo, hoặc cho từng nhóm nhỏ hoặc cho từng người. Các con đã tiếp nối thầy được đến bao nhiêu rồi?
Hôm nay chúng ta hãy sống với nhau cho có hạnh phúc, hãy đi đứng, nói cười và tiếp xử với nhau cho có hạnh phúc thì đó mới chính là good continuation. Điều đó phải xảy ra từng ngày. Đám mây sẽ không có đau buồn gì khi nó không còn mang hình tướng của đám mây tại vì nó biết rằng nó đã thành mưa, mà thành mưa thì nó vẫn tiếp tục đời sống phụng sự của nó. Và khi đám mưa không còn nữa thì mình lại thấy có dòng suối và dòng suối lại tiếp tục sứ mạng của cơn mưa. Và vì vậy cho nên không có cái gì chết, không có cái gì mất đi cả.
Tiếp nối vô tướng
Chúng ta thường kẹt vào hình tướng quen thuộc. Do vậy ta hay khóc thương khi thấy cái hình thức quen thuộc ấy không còn nữa. Khoa học bây giờ có thể dùng phép cloning để có thể tạo ra một ngàn đứa bé giống hệt như hồi Thầy còn bé. Chỉ cần lấy ra vài ngàn tế bào của thầy là làm được chuyện này. Một ngàn đứa bé ấy sẽ giống nhau như đúc và giống như thầy hồi còn bé…Các vị có thể thích thú nhìn các cậu bé ấy chơi đùa, nói cười rất giống Thầy hồi còn bé. Nhưng những cậu bé ấy không phải đích thực là thầy, dù trong mỗi đứa cũng có những hạt giống tốt và những hạt giống không tốt của thầy. Nếu chúng không gặp minh sư, không có môi trường tu học, không đi qua những thử thách như thầy thì chúng cũng không phải là sự tiếp nối đích thực của thầy. Nhưng nếu quý vị, trong mỗi bước chân, trong mỗi hơi thở mà có pháp lạc của thầy thì quý vị trên hình thức tuy mặt mũi không giống thầy mà trong nội dung lại là sự tiếp nối đích thực của thầy. Cho nên pháp môn vô tướng trong tam giải thoát môn là rất quan trọng để chúng ta nhận diện được thế nào là sự tiếp nối đích thực.
(Trích Thông bạch Ngày Tiếp nối 2012)
Mừng ngày Tiếp nối của Sư Ông Làng Mai (11.10.1926 – 11.10.2018), chúng ta hãy cùng làm mới lại sự thực tập của mình. Hãy cùng nhau trở về với bước chân và hơi thở chánh niệm, để chế tác năng lượng bình an và niềm vui gửi đến Sư Ông nhân ngày Tiếp nối.
NƠI SUỐI NGUỒN CHẢY VỀ
(Chân Duyệt Nghiêm)
Bích Nham, mùa thu…
Bạch Thầy kính thương,
Sáng nay, một buổi sáng làm biếng yên tĩnh và hiền lành, con đang ngồi uống trà, nhìn ra cảnh vật núi đồi phía xa xa thấy một cội cây lớn, nổi bật lên nền trời, con nhớ đến Thầy… Cội cây rất can trường. Bầu trời đang rạng dần, phía sau cội cây, núi đồi một màu xanh thẫm sắp sửa ánh lên những tia nắng đầu tiên. Con nhớ đến bài “Buổi sáng” của Thầy… Không có buổi sáng nào giống buổi sáng nào… Con đang uống từng ngụm ban mai tinh khiết, trong lành mà đất trời và buổi sáng ban tặng. Con nhớ đến Thầy nhiều và nhớ đến những câu thơ rất đẹp của Thầy: “Trà khuya bay khói thơ không chữ. Thơ chở trà lên tận đỉnh mây…” Tạ ơn Thầy đã cho con cảm thấy không ngần ngại thêm vào túi gió trăng của con một chút văn, một chút thơ, một chút nhạc,… – những nét đẹp của cuộc sống quanh con. Thầy trò mình có những thú chơi thật thanh tao – dậy sớm, thưởng trà, ngồi yên, ngắm nhìn trời đất lặng lẽ chuyển mình từ cái thăm thẳm đen của núi rừng buổi khuya đến tinh mơ sáng. Đôi khi con thấy trời đất cũng đang ngắm nhìn con, “thưởng thức” con, cho nên con cũng ngồi thật yên, thật đẹp.
Vừa rồi, con có cơ hội đọc quyển “Silence” của Thầy, có đoạn như vầy:
“Im lặng là một điều thiết yếu. Chúng ta cần yên lặng, như (muôn loài) cần không khí, như cây cần ánh sáng. Nếu tâm trí chúng ta bị lấn lướt bởi những ngôn từ và suy nghĩ, thì sẽ không còn không gian cho chúng ta nữa”.
Và: “Nếu biết rằng yên lặng và không gian rất quan trọng cho hạnh phúc của chúng ta thì tại sao chúng ta không kiến tạo thêm những thứ đó cho đời sống của mình?”
Có những lúc Thầy đã nói thành lời những điều trong lòng con và có những lúc con tìm thấy được Thầy qua một cái gì đó mà con đang làm, đang nghĩ, đang cảm. Những lúc đó, tình Thầy-trò được cảm thông sâu sắc lạ kỳ, thấy thương kính Thầy thật nhiều, cho dù Thầy không có ở đó hoặc con không đang uống trà với Thầy.
Con còn nhớ những ngày con được làm thị giả sư cô Chân Không. Con và một sư em lên sớm, đứng trước cốc Ngồi Yên của Thầy ở xóm Thượng để đợi Thầy và Sư Cô tới. Đó cũng là một buổi sớm mùa đông, sương mù ngập trời, cốc Ngồi Yên và những hàng cây mùa đông ẩn hiện thấp thoáng dưới ánh đèn vàng. Hai chị em thấy như đứng trên núi. Sư em sinh ra ở núi, là dân miền núi. Hai đứa cũng đều thích núi. Tự nhiên thấy một niềm vui, một nỗi đồng cảm và có điều gì thiêng liêng lạ. Hai chị em đứng đợi Thầy mình tới. Rồi chúng con cùng đi với Sư Cô vào cốc Ngồi Yên để được uống trà với Thầy. Không cần nói một lời nào nhưng những giây phút đẹp đẽ và tĩnh lặng đó, con sẽ chẳng thể nào quên được.
Trong một khóa tu xuất sĩ, con được ở cốc Linh Quy, mỗi ngày ra thiền đường lớn phải đi một đoạn đường gần bằng đoạn đường từ cốc Ngồi Yên ra thiền đường Nước Tĩnh. Không ngày nào mà con không nghĩ đến hình ảnh Thầy vào những buổi sớm mùa đông Thầy ra ngồi thiền với quý thầy vào mùa an cư. Vẫn khung trời trăng sao lồng lộng đó, từng bước chân đó, ung dung, bình thản, tĩnh lặng, bao nhiêu năm rồi. Nhớ lời Thầy dạy “đừng phụ gió trăng”, mỗi buổi sáng, con không nỡ lòng để lỡ bước chân nào, bước lên bao nhiêu đó bậc cầu thang rồi băng qua lối đi trải sỏi để vào thiền đường. Nếu có lỡ quên đoạn nào thì dừng lại, “đi lại”, hoặc nhủ lòng “ngày mai nhớ nhé”. Nhưng, mùa an cư đó, con không có Thầy đi bên mình, con đã đi với Thầy trong đôi chân con, con hiểu rằng con đang có được biết bao nhiêu là tình thương, bình an và tự do mà Thầy trao cho.
Thầy kính thương, con thương quý Bích Nham thật nhiều, cho nên con cũng thương quý xóm Hạ, thương Làng, thương Sơn Cốc – nơi mà con đã được sinh ra và lớn lên. “Đi trong sương lâu ngày cũng ướt áo”, có lẽ trong con bây giờ cũng thấm được một chút “tương chao”, thấm được cái tình bao la, sâu đậm của Tăng thân. Nhớ ngày nào con mới đến Làng, còn lơ ngơ, còn lầm lũi, mà bây giờ đã… “khôn lớn” thành người rồi Thầy ạ ☺, dù cho con lúc nào cũng là một đứa con thơ dại của Thầy. Có những tình thương đã nuôi con lớn lên; có sự tôn trọng và kiên nhẫn đã nhiếp phục đứa bé bướng bỉnh, dại dột trong con. Và thiên nhiên bao la đã cho em bé đó được hồn nhiên, tung tăng, sống vui trở lại. Tạ ơn Thầy đã dạy con một bài học lớn về lòng Biết Ơn, để con biết trân quý và hạnh phúc.
Lại nhớ có lần con qua Sơn Cốc chơi, Thầy xoa đầu con, dạy: “Con phụ thầy chăm sóc Thiên đường nghe”, sư cô HN cười sảng khoái, không biết là Thầy có biết sư cô cười “chọc quê” con không. Sau đó, ra về sư cô có nói: “Thầy ‘gõ đầu’ đúng người ghê!” Đó là vì sư cô biết nhiều khi con “nổi cơn” hay đòi đi… lên núi! Một ngọn núi thiên đường ở đâu đó… Dù vẫn biết mình là “con nhà giàu” rồi, dù vẫn biết “đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt” rồi, nhưng chân vẫn cứ đòi đi !!! Thế nhưng, lời nhắn nhủ dường như rất nhẹ nhàng, vu vơ đó của Thầy đã còn ở lại rất lâu, rất sâu trong con. Lòng Thầy thật từ bi vô cùng. Lúc đó lời Thầy cho con có cảm giác là “sự có mặt của con ở đây là cần thiết và hữu ích”, “mình đang ở Thiên đường đó, con!” hoặc “con chỉ cần có mặt ở đây thôi là đủ!”. Ấy vậy mà theo thời gian, con mới thấy con cần nơi chốn này và Tăng thân biết chừng nào. Từ đó con tập nhìn những nơi chốn mình đang ở là một “thiên đường”. Cho dù trong đó có rác, có hoa, có bao ngổn ngang còn đó, thì vẫn có bao nhiêu điều đẹp đẽ và kỳ diệu mà có khi con đã cho là “bình thường” như: không gian, rừng cây, nắng, nụ cười, niềm thương, nỗi nhớ,… Và rằng, trong lòng “thiên đường”, trong lòng Tăng thân đó, con chỉ bình an vui hưởng những cái lành, cái đẹp, cái an vui,… nhiều lắm thưa Thầy. Tạ ơn Thầy đã dựng xây nên những thiên đường và gọi chúng con về hội ngộ để cùng vui chơi trong thiên đường đó!
Con nhớ có một lần làm biếng dài ngày sau an cư, sư cô Chân Không đã rất từ bi cho phép chị em chúng con lên Sơn Cốc để ở, chơi, nghỉ ngơi và tu tập. Những ngày đó, Sơn Cốc vắng lặng, và có một chút quạnh quẽ vì Thầy đang nằm viện. Con không thể không nhớ đến những lần làm biếng chúng con lên còn có Thầy ở đó. Thầy viết thư pháp, ngồi thiền, kể chuyện, dạy chúng con hát, hay cùng nhau đi thiền hành trong vườn,… rất an lành và đầm ấm. Những ngày đó, nhà chỉ có ba chị em, chúng con ý thức là Thầy đang bệnh nên ai cũng hết lòng tu tập và tận dụng hết không gian, thời gian đẹp đẽ và quý báu đó. Ngày nào con cũng tập thể dục, ngồi thiền, nghe pháp thoại, đọc sách,…. Và có những ngày, con đi thiền hành nhiều lần trong vườn, len lỏi qua những bụi tre, men theo bờ suối, đi đến tận cuối vườn, vòng qua nhà xanh, thiền ôm với những cây tùng, cây sồi,… Con bước thật cẩn trọng, nhẹ nhàng như Thầy bước. Con thấy con đang đi với Thầy và Thầy đang có mặt cho đôi chân của con thêm bình an, vững chãi…
Con sẽ không thể nào quên được những buổi chiều hoàng hôn rực đỏ hay tím biếc khi chúng con cùng đi bộ ra ngoài về phía nhà thờ cổ hay hướng ngược lại, về phía những cánh đồng cỏ thoai thoải lấp lánh nắng, đi lên những con dốc ngoằn ngoèo, uốn lượn rồi lại xuống phía bên vườn mận nơi những cây cành khẳng khiu mùa đông đã bắt đầu lấm tấm đầy nụ trắng. Con thấy như con đang đi ngược về thời Trung cổ của hơn 1000 năm trước với những ngôi nhà, con đường cổ kính, trầm mặc; mọi thứ yên lặng phả ra một vẻ đẹp lung linh, huyễn hoặc trong ánh sáng buổi chiều tà và trôi vào bất tuyệt khi bất chợt có tiếng chuông nhà thờ đâu đó ngân lên. Tạ ơn Thầy đã cho con đôi mắt để ngắm nhìn, đôi tai để lắng nghe và một tâm hồn để cảm nhận cuộc sống đang rung động đầy đẹp đẽ, bao dung, tinh tế. Những người đã từng ở Làng có lẽ không ai không thương Sơn Cốc, Phương Khê, với vô số các lý do riêng chung cùng các cung bậc khác nhau. Con cũng đang nhớ Thầy, nhớ Sơn Cốc thật nhiều.
Thầy kính thương, hôm trước con đi ra phố. Cùng với các sư anh, sư chị, con đến ABC Home cho một ngày quán niệm ở đó. Thật lạ lùng mà dường như cũng rất… phù hợp, mình chọn ngay một tòa nhà lớn, nổi tiếng, nằm giữa thành phố New York đầy hối hả, năng động, hiện đại,… để hướng dẫn tu tập! Con chăm sóc phần hướng dẫn thiền hành, đi từ tòa nhà ra vòng quanh quảng trường Union, ngay đúng vào ngày quảng trường mở họp chợ!
Con nhớ Thầy mời Bụt đi với Thầy nên con cũng mời Thầy đi với con. Ồ, ngay từ những bước chân đầu tiên, con đã thấy rất nhẹ nhàng, bình an. Và con gửi lòng bình an cùng niềm tin của con vào những người đang đi cùng con, rồi đến những người đang ở xung quanh. Lòng con hân hoan một niềm biết ơn vô vàn đến Thầy – người đã mang bình an, thương yêu vào đời, hiến tặng cho cuộc sống một món quà vô giá. Quảng trường rất đông đúc, nhộn nhịp, con đi ngang qua những gian hàng đầy hoa rồi vào sâu giữa quảng trường, nơi có một không gian nhiều cây xanh mát.
Con mỉm cười với những bông hoa rồi mỉm cười với hàng cây, tàng lá; trân quý và biết ơn một khoảng thiên nhiên nhỏ bé giữa lòng đô thị. Con cũng thầm nói lời tạ ơn đất Mẹ, vẫn hiền lành, xanh tươi, độ lượng giữa bao khói bụi, người xe. Và con biết ơn Thầy đã dạy con biết thương yêu, giữ gìn đất Mẹ. Mấy anh chị em con đã đi với nhau rất vui, con cảm thấy giống như là “ngày xuất sĩ” vậy. Anh chị em ai cũng lắng nghe, quan tâm và yểm trợ nhau hết lòng, có lẽ chỉ vì ai cũng muốn mang lại niềm vui và lợi lạc cho những người cư sĩ đến với mình.
Con xin các sư chị, sư anh “xé nháp” cho con vì con chia sẻ về thiền hành dở quá, thiếu sót nhiều quá! Tuy nhiên, qua từng thời khóa – pháp thoại, ăn trưa im lặng trong chánh niệm, pháp đàm và vấn đáp – những điều mà con thấy mình thiếu sót trước đó dần dần được bổ sung đầy đủ qua sự chia sẻ của các sư anh, sư chị; cuốn hút được các thiền sinh cùng tham gia chia sẻ, thảo luận, rất cởi mở, hào hứng. Trên cả tuyệt vời, phải không thưa Thầy? Đến cuối ngày, những người thiền sinh (đa số là những người mới đến lần đầu) ai cũng vui, cũng nấn ná ở lại để hỏi thêm về các khóa tu, về quý thầy, quý sư cô và tu viện…
Thưa Thầy, Bích Nham đang vào thu. Một mùa được xem là đẹp nhất trong năm, một mùa bình an, mênh mang, thanh thản. Thật khó lòng mà không thương mùa thu, không “bâng khuâng, mơ màng, lãng đãng” trong một mùa đầy trắc ẩn như thế. Lạ lùng chưa, mùa thu dịu dàng, yên ắng, vậy mà ai cũng rộn ràng, xôn xao… Ấy là vì mùa thu nói bằng sắc màu của mình và bằng những cơn gió lạnh len vào trong ngày đó thưa Thầy. Những sắc màu của lá (hay là nắng?) – vàng, đỏ, cam, nâu, hồng,… – đang đổ xuống, rắc ray lả tả từ những ngọn cây, dọc theo các con đường, lối đi hay len lỏi trong rừng. Vẫn biết mùa thu là “mùa lá, mùa gió”, và đã từng gặp gỡ nhiều mùa thu ở Pháp, vậy mà con vẫn ngỡ ngàng trước những sắc lá biến ảo không ngừng từng ngày ở đây. Trong những cơn gió mùa này, mọi người lục tục mang áo ấm ra mặc thêm và tổ chức đi chơi để ngắm mùa thu, để ngồi với nhau và “gom nắng” để dành cho những ngày đông sắp tới. Đại chúng chơi với nhau rất vui, rất ấm cúng, tung tăng như… những chiếc lá vậy.
Có một buổi sáng thức dậy bước ra ngoài con bỗng thấy ánh trăng tràn ngập – dọc theo hành lang trước phòng, trên những tàng cây, những lối đi bên dưới, trên những khu nhà và rừng cây gần xa. Một màu bàng bạc, lấp loáng bao phủ khắp nơi. Con đi đến phòng học, thấy trăng còn “vắt vẻo” ở phía đó như đang đón chờ mình. Trong bầu không khí tịch mịch và trong trẻo không cùng đó, con thấy lòng tĩnh lặng và bình an lạ… Con nhớ bài kệ “Nghe pháp” :
“Nghe pháp trong bản môn
Lá thu rụng đầy trời
Trăng thu đầy lối cũ
Pháp không đầy không vơi.”
Trong buổi khuya mùa thu này, đất trời đang nói những lời trầm hùng, tha thiết và từ bi nhất. “Lối cũ” của Bụt, của Thầy vẫn còn đó, cho ánh trăng đêm nay, và con đứng đây – được phủ đầy, thấm đẫm ánh trăng thu, con có cảm hứng đi ngồi thiền hơn. Vì, đi qua những buổi khuya như vậy đẹp quá! Đôi khi, có thể đi vào, chạm vào những buổi sớm tinh sương – rất đen và rất sâu, trong lành và nguyên sơ – một cách không vội vàng, không hấp tấp, thoát nhiên thật cảm động như đang đi vào, chạm vào một cái gì đó rất yên, rất lặng trong con người mình.
Mùa thu này, đôi khi con chợt nhớ đến ngày xưa, nhớ cái thời còn “hai tay cầm lấy nỗi buồn lơ ngơ xuống phố. Tìm một màu áo len quen. Tìm một chút hé môi cười…” Và bây giờ, nhìn lá bay, thấy lòng, thấy đời đã thanh thản, bình an hơn xưa nhiều… Bây giờ ngắm người mà như ngắm lá… “xôn xao bầy lá nhỏ… miệng ngọt hạt từ tâm…”. Đôi khi, trong lúc say sưa ngắm những sắc lá mùa thu này, con “phát hiện” ra là cây lá mùa nào cũng đẹp chứ không phải chỉ ở mùa này.
Cái đẹp vẫn luôn tràn đầy, rất riêng trong từng phiến lá. Cây lá vẫn bình an, tự tại đi về trong lẽ vô thường, vô ngã không cùng của đất trời. Cây sồi ngoài cửa sổ phòng con đã chuyển sang màu đỏ nâu, rồi rụng rơi dần. Cây sồi đang đi tròn, về tròn theo bốn mùa của trời đất… Thật đẹp! Con biết “bạn đó” vẫn cứ đang vui chơi; rụng xuống chỉ để lớn lên, để “sống” và có mặt. Mùa này, con thấy con cũng giống như lá vậy. Tung tăng, vui chơi, bay lên bay xuống, mà xen vào đó là những khoảng lặng để ngắm nhìn, để thở, để thương, để hiểu, để nhớ về,… Con biết những ngày mùa đông sắp tới sẽ dài và lạnh. Con biết có thể con sẽ rời đây, không biết có quay trở lại và không biết có còn gặp được một mùa thu rực rỡ nào như thế trong đời.
Rồi những ngày đi về cuối mùa thu. Sương mù giăng mắc. Mưa phùn. Những hàng cây mang im lìm vào tiếng nói. Lá rụng đầy trời nên ngập trong không gian đầy tiếng xao xác của một màu xám bạc. Nhìn rừng cây đang trút lá, tâm cảm của con đôi khi là “buông bỏ”, đôi khi là trân quý, cẩn trọng, nhưng lại cũng có đôi khi mang một chút chấp chới, như tiếc nuối, như muốn níu kéo những sắc màu kia, những rực rỡ kia ở lại. Bây giờ, con thấy mình cũng đang giống một chiếc lá cuối thu. Không còn tung tăng nữa, con đang nằm yên dưới cội cây, lặng nghe mình thở, nghe tiếng đất trời đang thở và trở về với những mạch sống thật sâu, thật kín mà cũng rất bi hùng trong con người mình, để có thể tiếp tục “sống còn” trong mùa giá lạnh dài sắp tới.
Thông tin cập nhật về tình trạng sức khỏe
và sự thực tập cầu nguyện cho Sư Ông Làng Mai
Làng Mai, ngày 19 tháng 10 năm 2016
Hòa Thượng Thích Nhất Hạnh
đã tự ăn cơm một mình là phép lạ
Thầy đã tự ăn một mình (không cần sự giúp đỡ của thị giả) trong ngày tiếp nối thứ 90 (11/10/2016) của người. Thầy hôm nay với Thầy của ngày 6/12/2014 (ngày CM đi thăm Thầy tại bệnh viện Bordeaux) hoàn toàn khác biệt. Bởi vì hồi đó – ngoại trừ đôi mắt tinh anh thỉnh thoảng mở ra nhắm lại nhìn đệ tử hay ra hiệu gì đó, còn lại toàn thân Thầy không khác chi một cục bột. Nếu ai đã tận mắt thấy Thầy của 2 năm về trước (lúc mới bị tai biến) với Thầy ngày hôm nay đều đồng ý rằng Thầy đã hồi phục một cách kỳ diệu và ngoài sức tưởng tượng thường tình của chúng ta. Chứng tỏ Thầy đã vượt lên trên các cặp đối đãi nhị nguyên, đã vượt thoát quy luật tử sinh và thong dong tự tại với luân hồi – nghiệp quả. Điều đó đã được chúng đệ tử xuất sĩ, cư sĩ và nhất là giới khoa học thuộc ngành Y của khoa Thần kinh não bộ tại Pháp chứng kiến từng phút, từng giờ, từng tháng, từng năm liên tục.
Trước sự chịu đựng rồi vượt qua và hồi sức của Thầy, François Rouanet là vị bác sĩ Trưởng khoa Thần kinh não bộ (neurologie) thuộc Centre Hospitalier Universitaire (CHU) Bordeaux là một trong những vị bác sĩ chuyên khoa giỏi nhất nước Pháp đã phải tự phán rằng : “Là một bác sĩ về não bộ nhưng trong trường hợp của Thầy, tôi thấy mình thật sự chưa hiểu gì về não bộ hết”. Bởi vì tất cả mọi kiến thức mà ông học hỏi trong trường đại học y khoa, và sau này là kinh nghiệm của người thầy hướng dẫn sinh viên thực tập cũng như kinh nghiệm chữa trị lâm sàng qua nhiều năm dài của ông đều sai với trường hợp của Thầy. Ngay lần đầu chẩn bịnh cho Thầy, ông tuyên bố Thầy chỉ có thể sống được 24 giờ, hoặc 36 giờ, nếu giỏi lắm thì 3 ngày là tối đa. Thế nhưng 3 ngày đã trôi qua mà Thầy vẫn còn thở mặc dù không có một tín hiệu nào báo cho sự hồi sinh. Tới ngày thứ 10 chẳng những cục máu bị vỡ trong óc không nhỏ lại mà còn lớn hơn và lan sang bên bán cầu phải. Vị bác sĩ của chúng ta vẫn tự tin là Thầy sẽ không qua khỏi và đã ký giấy để đưa Thầy về Làng lo hậu sự. Phải chờ tới ngày 30/11 tức 19 ngày sau cơn tai biến sau khi kết quả chụp IRM cho thấy bọc nước bao quanh cục máu bầm đã nhỏ lại. Lúc đó bác sĩ François Rouanet tuyên bố là tới hôm nay ông mới có hy vọng Thầy sống được.
Tôi đã chia sẻ sự kiện này với nhiều người, trong đó có 2 vị thiền sư – một vị ở Vạn Giã (Nha Trang) một vị ở Mỹ Tho (Tiền Giang) tất cả đều cùng đồng ý rằng : Thầy đã vượt thoát mọi biên kiến nhị nguyên, đã đạt thiền và từ lâu người vẫn đến đi thong dong tự tại – một thứ tự do đích thực trong cõi tử sinh. Thầy là một minh chứng sống cho tất cả những gì mà ba tạng Kinh, Luật, Luận ghi chép qua 26 thế kỷ. Nói cách khác – bậc giác ngộ trong kinh điển ghi chép nhiều ngàn năm đã bước ra hiện thực của đời thường.
Phúc đức nào bằng, hạnh phúc nào bằng, vui sướng nào bằng được sống và được chứng kiến một sự kiện hiếm quý ngàn năm mới có một lần.
Để tận hưởng niềm vui và hạnh phúc lớn này, chúng ta cùng hát bài Hạnh Phúc Bây Giờ!
CM- Phù Sa
Vedepphatphap.vn
và sự thực tập cầu nguyện cho Sư Ông Làng Mai
Làng Mai, ngày 08 tháng 01 năm 2016
– Các trung tâm tu học thuộc Đạo Tràng Mai Thôn
– Các tăng thân cư sĩ tu học theo pháp môn Làng Mai và quý thân hữu trên thế giới
Kính thưa quý vị,
Trong những ngày đầu năm mới 2016, Sư Ông chúng con thể hiện rất rõ mong muốn được về lại Làng Mai, nước Pháp. Người tương đối hài lòng với những tiến triển trong quá trình trị liệu tại Mỹ cho đến thời điểm hiện tại, nhờ vào sự chăm sóc và chữa trị tận tình của các bác sĩ tại Trung tâm UCSF cũng như các nhà vật lý trị liệu trong suốt sáu tháng qua.
Giờ đây, Sư Ông chúng con mong muốn về lại Làng để được sum vầy dưới mái nhà tâm linh Làng Mai và để tận hưởng nguồn năng lượng tập thể hùng hậu có tính trị liệu của tăng thân. Các thị giả sẽ tiếp tục chăm sóc và luôn có mặt bên Sư Ông, cũng như tiếp tục tìm kiếm những phương pháp trị liệu thích hợp nhất với Người. Các bác sĩ cũng đồng ý với quyết định trở về Làng của Sư Ông và hoàn toàn tin tưởng Người có thể về Pháp một cách an toàn.
Chúng con vui mừng thông báo với quý vị thân hữu rằng chuyên cơ đưa Sư Ông chúng con về Pháp đã hạ cánh an toàn tại sân bay Bergerac chiều hôm nay (mùng 8.1) và Sư Ông đã về lại Sơn Cốc trong niềm hạnh phúc của đại chúng Làng Mai.
Chúng con vô cùng tri ân sự yểm trợ vật chất cũng như tinh thần mà quý vị thân hữu gần xa đã gửi đến Sư Ông chúng con trong thời gian Người dưỡng bệnh tại San Francisco. Chính năng lượng thương yêu và yểm trợ của tăng thân khắp chốn đã giúp Sư Ông chúng con rất nhiều trong quá trình trị liệu và về lại Làng Mai với nhiều niềm vui.
Vừa qua, trong đêm giao thừa Tết Tây, Sư Ông hào hứng tham gia vào không khí đón Năm Mới cùng các thị giả. Sư Ông mỉm cười và ngân nga theo mỗi khi các thị giả hát những bài yêu thích của Người. Những ngày gần đây, khi nghe lại đĩa thu âm giọng Người đọc những bài thơ do chính mình sáng tác, Sư Ông đã lắng nghe một cách hứng thú và còn dùng động tác để diễn đạt những hình ảnh đẹp trong bài thơ.
Chúng con có niềm tin vào quyết định trở về Làng của Sư Ông. Chúng con cũng rất hạnh phúc khi biết rằng Sư Ông sẽ cùng đại chúng ở Làng đón Tết Nguyên Đán, tham dự lễ hội hoa thủy tiên và đặc biệt là có mặt cho Đại Giới Đàn dự kiến sẽ diễn ra vào tháng 3 tới. Chúng con đang tiếp tục thực tập cùng nhau chăm sóc cho Sư Ông, chăm sóc cho chính mình và cũng đồng thời chăm sóc cho phút giây hiện tại. Chỉ với sự thực tập đó, chúng con mới có thể có được một tương lai tươi sáng – một tương lai được làm bằng chất liệu của tình tăng thân, tình huynh đệ.
Một lần nữa, chúng con xin bày tỏ lòng tri ân đối với quý vị thân hữu và kính mong quý vị tiếp tục yểm trợ Sư Ông chúng con khi Người bước sang một trang mới của quá trình trị liệu.
Chúng con sẽ tiếp tục cập nhật về tình trạng sức khỏe của Sư Ông đến quý vị trên trang nhà Làng Mai tiếng Việt (langmai.org), trang nhà Làng Mai tiếng Anh (plumvillage.org) và trang nhà Làng Mai tiếng Pháp (villagedespruniers.net).
Đạo Tràng Mai Thôn
Sức Khỏe Của Thiền Sư
Thích Nhất Hạnh
Chân Pháp Đăng
CÁI NHÌN THẨM THẤU
Hôm nay, mình được đi thăm Thầy cùng với sư em Pháp Liệu, sau khi hai anh em đưa các sư em ra phi trường đi Tiệp Khắc để hướng dẫn cho cộng đồng sinh hoạt những ngày xuân. Đến nơi mới biết Thầy cần nghỉ ngơi nên hai anh em ngồi uống trà nghe sư cô Thoại Nghiêm tâm sự. Sau đó, mình quyết định qua thăm Thầy. Đúng lúc hai sư em thị giả mặc đồ ấm thỉnh Thầy ra ngoài trời chơi. Pháp Đại đẩy Thầy và tất cả đệ tử gồm có sư cô Chân Không, Pháp Đăng, Pháp Liệu, Thoại Nghiêm, Định Nghiêm và Pháp Đại đi theo hai bên Thầy. Ngày thật đẹp, nắng tươi, trời xanh, mây trắng. Thầy đã hồi phục nhiều chức năng nên cái cảm giác cũng nhiều hơn kể cả ngứa ngáy, đau nhức trong thân mà những cảm giác vui, thích và những cái đẹp ở ngoài trời. Các sư em thị giả dự định đưa Thầy đi chơi mỗi khi trời nắng ấm.
Thầy trò đi thiền hành một vòng khá dài, những tia nắng ấm trong vắt, mắt Thầy cứ nhìn về phía trước nơi có một bầu trời xanh biếc và những đám mây trắng tinh. Còn riêng mình thì mình cảm thấy hạnh phúc được đi từng bước chân bên Thầy. Đây là giây phút hạnh phúc, nó sẽ trở thành huyền thoại. Đi một vòng trở lại nơi trung tâm Rehap, Pháp Đại mời Thầy ngồi chơi ngoài trời có nắng ấm. Sư em Định Nghiêm đề nghị sư anh Pháp Đăng thỉnh chuông cho Thầy nghe, vì Thầy rất thích nghe tiếng chuông. Nhớ năm xưa, Thầy đã kiên nhẫn ngồi 2 giờ tập cho sư chú Pháp Đăng thỉnh chuông ở cốc Ngồi Yên. Một bậc Thầy kiên nhẫn đầy tin yêu.
Sau khi về lại phòng để y tá chăm lo thức ăn cho Thầy, mình có cơ hội xoa bóp hai chân cho Thầy. Mình thưa Thầy: “Thầy có muốn con hát những bài hát ngày xưa do Thầy dạy lúc con được làm thị giả không?” Thầy gật đầu! Trong phòng chỉ có sư em Định nghiêm, sư em Pháp Đại và sư em Pháp Liệu, mình hát bài Ảo Hoá và Cửa Tùng. Mình hát hết cả tâm hồn, vừa nhìn Thầy, mình vừa hát, và Thầy cứ nhìn mình chăm chăm. Đôi mắt Thầy toả ra năng lượng bình an và hạnh phúc. Mình nắm tay Thầy, và Thầy dùng những ngón tay vuốt bàn tay của mình. Suốt thời gian 25 năm dài, Thầy đã không ngừng thương yêu, dạy dỗ, trông chờ nơi người đệ tử Tây Tây này, đến khi nằm trên giường bệnh, Thầy vẫn luôn biểu hiện trong tâm thức mình để hỗ trợ cho sự thực tập của người đệ tử. Hôm nay, hai con mắt ấy gói hết cả tình thương nhìn xoáy vào đôi mắt mình. Mình biết Thầy rất là hạnh phúc khi nhìn mình. Mình biết mặt mình rất tươi, tâm hồn mình rất thanh thản. Thầy nhìn qua sư em Pháp Liệu, và nét mặt của sư em cũng mỉm cười đầy thương yêu. Giây phút thiêng liêng này thật là ấn tượng, in sâu nơi tận đáy tâm hồn của mình. Thầy sẽ trở thành trời xanh, mây trắng sáng mãi trong tâm hồn của mình.
Chân Pháp Đăng
Sept 9 – 2015
Sức khỏe Thiền Sư Thích Nhất Hạnh rất tốt, bắt đầu sang Mỹ điều trị phục hồi chức năng | Người Áo Lam
Tình Thương và Giải Thoát
Đây là bài phỏng vấn của ông Melvin McLeod – chủ bút tờ báo Shambala Sun với Thiền Sư Làng Mai.
Tôi được hầu chuyện với Thiền Sư Thích Nhất Hạnh về đề tài:
1/ Tình thương đích thực.
2/ Những lợi lạc của khổ đau.
3/ Làm sao mình thoát ra khỏi tình huống khổ đau nhờ đem chánh niệm nhìn sâu vào sự việc để thấy, hiểu ra, để chấp nhận và thương được.
Thầy cho chúng tôi biết: Thầy dạy Phật giáo nguyên thuỷ bằng tinh thần của đại thừa. Tôi thì tôi nghĩ rằng: cho đến hôm nay, tôi chưa gặp được ai có thể dạy những điều dạy chính thống của Bụt một cách sáng sủa và mạnh mẽ như Thầy trình bày về đạo Phật.
(Melvin McLeod – chủ bút của báo Shambala)
Melvin McLeod: Kính thưa Thiền Sư, tại sao Chánh Niệm là chìa khóa của hạnh phúc?
Thiền Sư Làng Mai: Chánh niệm đưa đến định. Định đưa đến cái thấy thâm sâu là tuệ giác. Tuệ giác giúp ta thoát khỏi cái thấy mê mờ của mình, thoát khỏi cái giận và tham đắm. Khi mà ta thoát khỏi được phiền não thì hạnh phúc có thể có mặt. Làm sao ta có thể hạnh phúc được khi ta đã đầy ắp nào là giận hờn, nào là si mê và tham lam? Thế nên cái thấy sâu sắc – tuệ giác – mới cởi trói cho ta khỏi những ràng buộc khổ lụy ấy và mới là chìa khóa cho hạnh phúc.
Thường thì có rất nhiều điều kiện hạnh phúc đang có mặt. Nhưng ít khi nào ta để ý, nhận diện nó, bởi vì chúng ta không chánh niệm, không ý thức được những hạnh phúc đang có mặt. Khi thân và tâm đang cùng có mặt trong giây phút hiện tại, ta thật sự sống động, tỉnh táo. Ta thật sự có mặt, ta thật sự sống và tiếp xúc được khá sâu sắc với sự sống trong lúc này và tại đây. Thành ra, ta không chỉ tu tâm, mà ta còn tu cả với thân của ta nữa. Thân và tâm phải là một, không hai được. Trên căn bản ấy, bạn sẽ thấy những gì bạn đang tìm cầu đã có mặt từ lâu rồi, cho dù đó là giác ngộ, niết bàn, giải thoát, Phật, Pháp, Tăng hay là hạnh phúc, nó đều đang có mặt ở ngay bên bạn đó. Thật ra, phút giây hiện tại, đó là giây phút duy nhất mà bạn có thể tìm được những cái trên.
Ngược lại khi tâm và thân bị phân tán, khi mà ta chìm sâu vào suy tính tư duy… và ta không có mặt trong phút giây hiện tại, ta hành xử như là một cái xác, như người mộng du.
Có thể mọi người đều đồng ý rằng ta phải sống trong phút giây hiện tại đó, nhưng cái thói quen để cho tâm bị trôi lăn, phân tán nó đã hiện diện trong ta lâu lắm rồi. Nó cứ đẩy ta đi vòng vòng cho nên ta đánh mất khả năng có mặt sâu sắc trong phút giây hiện tại. Vì thế sự tu luyện đúng mức rất quan trọng. Nghe thuyết pháp và đọc sách không chưa đủ. Ta phải thực tập đủ lâu để có tập khí mới, tập khí dừng lại được cái tâm rong ruổi, chạy tán loạn của ta để ta có thể an trú thân tâm trong phút giây hiện tại. Đó là sự thực tập đầu tiên: dừng lại, dừng lại, nhìn kỹ hơn, nhìn rõ hơn, nhìn sâu hơn và nhận diện những điều kiện hạnh phúc đang có mặt, thoát ra khỏi ngục tù của sự bị kéo đi bởi thói quen chê trách, than van, lúc nào cũng không vừa ý. Đó là con đường của Bụt.
.
Melvin McLeod: Thưa Thiền Sư, Thầy nhấn mạnh nhận diện niềm vui, sự hạnh phúc và sự hài lòng trong khi tu tập – niềm vui khi đặt những bước chân trên mặt đất, niềm vui khi hít vào một hơi thở chánh niệm. Có thể vì cái quá khứ học Phật quá cứng ngắc và nghiêm khắc của chúng tôi mà chúng tôi thấy dễ chấp nhận hơn khi nghe rằng “mình tu theo Bụt thì tu làm sao cho cứng cỏi, không để bị kéo đi bởi niềm vui. Đối với tôi, gần như là mình đi sai đường nếu trộn lẫn tôn giáo với thú vui và ăn mừng sự sống”
Thiền Sư Làng Mai: Tôi nghĩ rằng, phần đông khi lắng nghe Bụt dạy về bốn sự thật mầu nhiệm (Tứ Diệu Đế)- nhất là sự thật đầu tiên, họ nghe những chữ như khổ đau, như phiền não và vì thế nên họ nghĩ rằng đạo Bụt là đạo chỉ nói đến khổ đau thôi. Nhưng họ không nhớ rằng sự thật thứ ba là để nói về hạnh phúc, cái ngược lại của sự thật thứ nhất là phiền não, khổ đau. Bốn sự thật mầu nhiệm mà Bụt dạy là: 1/ Có khổ đau, có phiền não, 2/ nhận diện con đường đưa ta đến chỗ khổ đau 3/ Có thể làm khổ đau vắng mặt, nghĩa là có hạnh phúc và 4/ có con đường dẫn tới hạnh phúc. Có lẽ chúng ta nên trình bày đạo Bụt bắt đầu bằng hai sự thật thứ 3 và thứ 4 trước: 1/ Có thể có hạnh phúc ngay. 2/có con đường đưa tới hạnh phúc. 3/ Có thể ở tình trạng triền miên trong khổ đau 4/ Có cách nhận diện những nguyên nhân của khổ đau.
.
Melvin McLeod: Khi có chánh niệm, ta khám phá ra ta có nhiều niềm vui nhưng đồng thời cũng khám phá ra nhiều niềm đau và thương tích trong ta, đó là những kinh nghiệm khó xử khi thực tập chánh niệm. Xin Thiền Sư chỉ cách cho chúng tôi trong những trường hợp khi khổ đau trỗi dậy ?
Thiền Sư Làng Mai: Khổ đau và hạnh phúc liên hệ chằng chịt với nhau. Chúng ta chỉ nhận diện được hạnh phúc khi có một quá khứ khổ đau. Ví dụ như ta thấy rõ hơn những chữ trắng nếu nó nằm trên nền đen. Nếu ta đã từng đói ta mới thấm thía được niềm hạnh phúc khi có ăn. Nếu ta đã từng khổ đau vì chiến tranh ta mới thấy tất cả giá trị lớn lao của hòa bình. Nếu không, bạn sẽ không trân quý hòa bình, bạn chỉ muốn đánh giặc thôi.
Thành ra, kinh nghiệm của ta về những khổ đau không lường được của chiến tranh sẽ giúp ta tìm nhiều cách để gìn giữ hòa bình. Vì thế nếu có được những kinh nghiệm đau buồn là điều rất tốt, nhờ thế mà trên nền tảng ấy ta nhận diện được hạnh phúc.
Phần đông chúng ta, ai cũng có một khuynh hướng thâm sâu là tìm về khoái lạc và tránh khổ đau. Điều này có nguyên nhân sâu xa trong tàng thức của ta, phần này của tâm ta gọi là mạt na thức. Tiếng Bắc Phạn Sanskrit là Manas, là một phần trong tâm mỗi người, chỉ muốn tìm về chỗ hưởng thụ và lẩn tránh khổ đau. Mạt Na thức không ý thức cái hiểm nguy của các sự hưởng thụ ấy. Như con cá đã được báo trước là hãy coi chừng những miếng mồi ngon vì bên trong nó có thể có lưỡi câu móc họng. Nhưng nó vẫn không cưỡng được sự cuốn hút của miếng mồi. Mạt Na cũng không thấy được cái lợi lạc của bài học khổ đau. Chúng ta cũng nên tập chấp nhận khổ đau bởi vì khi ta đau, muốn vượt được khổ đau ấy ta phải tập hiểu sâu hơn vấn đề thì mới thương và chấp nhận được để thoát ra khỏi niềm đau ấy. Bởi vì tâm ta vốn không biết cái hiểm nguy của dục lạc, cũng như không biết về cái lợi lạc của bài học khổ đau nên chúng ta phải chuyển vào tàng thức cái tuệ giác đó. Bởi vì chỉ để một mình ý thức tu tập thôi thì chưa đủ để chuyển hóa tận gốc những nỗi khổ niềm đau. Cái mà ý thức có thể làm là quán chiếu để đạt tới cái thấy sâu sắc đó và tải xuống tàng thức cái tuệ giác kia.
Cái tuệ giác đầu là thấy rằng sự tìm kiếm dục lạc rất nguy hiểm và sau đó là nếu đang khổ đau thì phải học cho được bài học từ khổ đau, khổ đau cũng có cái lợi lạc của nó. Nếu ta chánh niệm, nếu ta đủ can đảm để trở về với chính ta và ôm ấp nỗi khổ của chúng ta thì ta sẽ học được nhiều lắm. Khuynh hướng thông thường là lẩn tránh nỗi khổ, niềm đau nhưng ta nên làm ngược lại. Nhận diện nó, nhìn sâu và tìm cách chuyển hóa nó. Nếu ta chỉ biết trốn chạy nỗi khổ thì ta sẽ không có cơ hội chuyển hóa. Bởi thế cho nên Bụt dạy ta, trước hết là chấp nhận sự thật thứ nhất, sự thật là mình đang có khổ đau. Sau đó là nhìn sâu vào khổ đau để có thể tìm ra sự thật thứ hai là nguyên nhân đưa ta đến cái khổ đó. Đó là cách duy nhất để cho sự thật thứ ba, con đường hành trì để chuyển hóa khổ đau, đưa tới hạnh phúc có thể xuất hiện được. Vì thế ta nên nhấn mạnh đến vai trò của khổ đau. Nếu ta quá sợ khổ đau thì chúng ta không có cơ hội thành tựu những khám phá ấy.
Melvin McLeod: Tôi nghĩ là ai ai trong chúng ta cũng từng có thương một người trong cuộc đời và ta sẽ sẵn sàng gánh chịu hết những khổ đau của người kia và sẵn sàng trao tặng cho người đó những hạnh phúc ta có. Nhưng làm sao để trải rộng tình thương đó ra cho mọi người? Làm như thế thì cuối cùng mới chuyển được thế giới? Làm sao nhân lớn lên và làm lan rộng ra cái tình thương mà mỗi người trong ta đều có?
Thiền Sư Làng Mai: Khi ta mới lọt khỏi lòng mẹ, vừa tách rời cung điện ấm áp (tử cung) của mẹ, ta bắt đầu sợ hãi, cái sợ đầu tiên đó nó thật lớn và thật sâu bởi vì ta có thể chết trong giây phút trọng đại, nguy ngập ấy. Rồi người ta lại cắt mình ra khỏi cái cuống rốn đã nuôi nấng mình khá lâu trong bụng mẹ. Giờ đây thì mình phải tự thở lấy. Phổi của mình khi ở trong bụng mẹ thì có nước, nhưng trong giây phút trọng đại này, ta phải đẩy chất nước ấy ra khỏi phổi để tự hít vào hơi thở đầu tiên, nếu làm không được thì mình sẽ chết.
Thành ra, kinh nghiệm đầu tiên của ta về cái sợ là lúc đó và cái ước muốn ban đầu muốn được sống sót nó cũng được sinh ra lúc ấy. Cái ước muốn đầu tiên được sống còn cũng được phát sinh từ lúc ấy. Kinh nghiệm sợ hãi ban đầu được phát sinh từ lúc ấy. Là một em bé mới sinh, mình thấy mình thật bất lực. Mình sẽ không sống sót nổi nếu không có ai đến chăm sóc mình. Khi mình nghe bước chân của ai đó đến gần để chăm sóc mình thì mình hạnh phúc. Cả ngày mình chỉ chờ đợi tiếng chân đến gần mình bởi vì mình biết sau khi tiếng chân đến gần là có sữa, có sự ấm áp, có mọi thứ… Đó là cái sợ ban đầu và cái thèm khát ban đầu được phát sinh.
Rồi khi mình lớn lên, cái thèm khát có một người yêu cũng là sự tiếp nối từ cái thèm khát ban đầu đó. Mình thấy cần có một người để chăm sóc mình, nếu phải sống một mình thì thiếu thiếu cái gì đó và mình thấy hơi bất lực, mong manh. Mình không tự thấy yên tâm nếu chỉ sống một mình. Vì vậy cứ tìm cách có một người yêu cùng sống bên nhau, đó cũng chứng tỏ là cái thèm khát ban đầu (khi mới sơ sinh) vẫn còn đó, rằng mình không cảm thấy an tâm nếu không có ai bên cạnh.
Thế nên người yêu, người bạn hôn phối cũng là một loại tiếp nối sự thỏa mãn cái thèm khát ban đầu, cái nhu yếu có mẹ có bố kề bên. Ta thấy có sự an ổn ngay khi có mẹ một bên, có bố kề bên. Thật ra không phải sự có mặt thật sự của bố, của mẹ mới làm cho mình an tâm. Thật ra chính cái ý niệm là “mẹ đang ở đây mà” hay là “bố đang ở đây mà” đã khiến cho mình có cảm giác an ổn rồi. Nhưng sau một thời gian thì mình thấy người ở kề bên mình ấy làm phiền mình quá và mình muốn ly dị. Thế nên thật ra không phải vì sự hiện diện của anh chàng hay cô nàng ấy cho mình có cảm tưởng thoải mái mà chính là cái ý niệm trong đầu mình và cái thèm khát ban đầu khi còn bé thơ nó đã sai khiến. Tình yêu, trong đạo Bụt lúc nào cũng bắt đầu bởi chính mình trước khi có sự xuất hiện của những người khác trong cuộc đời mình. Tình thương theo Bụt dạy là khi mình trở về “nhà” (thân và tâm) của chính mình. Mình nhận diện được nỗi khổ trong tâm mình, cái sợ ban đầu, cái thèm khát ban đầu… Sự hiểu biết sâu sắc nỗi khổ của mình khiến mình nhẹ ra và biết thương mình nhiều hơn, bởi vì mình quyết định đạt tới trọn vẹn tiềm năng của mình. Và vì thế mình không cần phải có một người nào khác để mà bắt đầu thương. Ta nên bắt đầu bằng chính ta.
Tình thương chân thật không phải là phải chọn một người. Khi tình thương có mặt, mình tỏa rạng ra như một ngọn đèn. Đèn không chỉ chiếu lên trên một vài người trong phòng này, đèn sáng lên thì tất cả mọi sự vật xung quanh đều được hưởng. Cũng thế, nếu thật tình ta có tình thương trong ta thì mọi người quanh ta đều thừa hưởng – chẳng những con người được hưởng mà ngay cả cầm thú, cỏ cây và đất đá cũng được ân chiêm. Tình thương chân thật là như vậy. Tình thương chân thật là xả, là bao trùm tất cả.
Thành ra, muốn trải tình thương ra thật rộng, thật xa thì ta nên tập thấy thương, và tinh tấn tu tập để hoàn tất sự trọn vẹn, viên thông nơi chính mình.
Thiền Sư Làng Mai: Cái ngã của mỗi người được thành lập bởi những yếu tố không phải là ngã và cái tuệ giác vô ngã ấy sẽ giúp ta thoát ra khỏi những mặc cảm hơn thua. Chúng ta được cấu tạo bởi những điều kiện không phải là ta. Khi ta nhìn sâu, ta sẽ thấy trong ta có tất cả những đường nét và tập khí của tổ tiên, cha mẹ, văn hóa, xã hội, bạn bè và tất cả quanh ta.
.
Melvin McLeod: Rất nhiều giảng sư Phật giáo giảng dạy về giáo lý tương tức bằng những danh từ rất trừu tượng nhưng tôi thấy cái cách nhìn vào chính bản thân ta với từng yếu tố rõ rệt đến từ đâu đã ảnh hưởng ta ra sao, về mặt tích cực cũng như tiêu cực nó giúp đỡ ta nhiều lắm.
Thiền Sư Làng Mai: Tôi nghĩ rằng giáo lý Bụt dạy rất đơn giản, ta cần trình bày cho đơn giản để trẻ em cũng hiểu được. Sáng nay chúng tôi đã hướng dẫn một buổi thiền tập quán chiếu vào gia đình mình và những yếu tố vẫn còn có mặt trong ta “Thở vào tôi thấy cha tôi lúc mới lên năm, yếu đuối và mong manh. Tôi mỉm cười với đứa bé lên năm (vốn là bố tôi) với lòng từ bi.” Cái cách quán chiếu như vậy có thể giúp ta tiếp xúc với cái sự thực của vô ngã với các yếu tố không phải là ta đang nằm trong ta. Khi ta thấy được cha ta có những yếu tố bị xâm nhập từ tuổi thơ – không phải là cha – khiến cha dữ dằn bạo động như thế thì ta có thể sẽ hiểu và thương được cha, dù cha có tệ bạc. Và ta cũng thấy được cha đang có mặt trong từng tế bào trong ta với những khổ đau, những tập khí và cả những tài năng của cha trong ta.
Nếu ta có tài năng thì đó cũng là sự tiếp nối của cha mà thôi .Thực tập như vậy sẽ đem tới tuệ giác tương tức rất cụ thể, tuệ giác vô ngã cũng cụ thể. Nó sẽ giúp ta thoát khỏi giận hờn, oán trách cha mà ngược lại ta còn biết tri ân cha v.v.. Tại sao mình không quán chiếu những yếu tố không phải là ta trong ta không những bằng tuệ giác mà còn bằng tình thương nữa? Tuệ giác và tình thương là một. Tuệ giác đưa tới tình thương và tình thương không thể nào có được nếu không có hiểu, không có tuệ giác. Nếu ta không hiểu thì không thể nào ta thương được. Tuệ giác này là cái hiểu trực tiếp, không phải chỉ là những khái niệm, những tư tưởng trừu tượng. Trong thiền quán ta phải ta cho phép ta được soi sáng bởi ánh sáng của tuệ giác này. Thỉnh thoảng ta phải cần sử dụng một hình ảnh để ta có thể hiểu rõ hơn. Ví dụ tôi hay giải thích cho các cháu bé rằng rất khó cho một cây bắp nhớ nổi, tưởng tượng nổi nó từng là một hạt bắp. Thế nhưng đó là sự thật, nếu các cháu và người lớn thấy được sự tương tức giữa hạt bắp và cây bắp thì mọi người cũng thấy được sự tương tức giữa cha và con, mẹ và con. Nếu sự thật đó được tiếp xúc qua tuệ giác của thiền quán thì giận hờn trách móc sẽ tan biến và tình thương có thể phát sinh.
.
Melvin McLeod: Thiền Sư là thầy của một truyền thống Thiền, với một hiểu biết sâu xa về các truyền thống Phật giáo khác, vậy mà suốt quá trình huấn luyện cho thiền sinh trong năm ngày liên tiếp thầy chỉ nói phớt qua chữ Thiền. Ngược lại thầy dạy rất kỹ về những phương pháp căn bản để tu tập chánh niệm, về tứ diệu đế (bốn sự thật mầu nhiệm). Vì sao thầy chọn cách giáo dục này?
Thiền Sư Làng Mai: Có loại Phật giáo nguyên thỉ từ hồi Bụt còn tại thế, đạo Phật do chính Bụt giảng dạy và nhiều trường phái Phật giáo đã phát sinh bởi những thế hệ đi sau. Nhưng cho dù là Phật Giáo nguyên thỉ, Thiền, Thiên Thai tông hay Kim Cương Thừa thì đó cũng là những điều Bụt dạy. Sự hành trì của Bụt đã được tiếp nối bởi các vị đệ tử của Ngài – tuệ giác và sự dạy dỗ của Ngài được chuyển tiếp qua nhiều thế hệ dù Ngài đã nhập niết bàn từ lâu. Ta thấy được Bụt qua nhiều thế hệ các đại sư và đệ tử của họ. Điều mà tôi đang làm là trình bày những cách hành trì nguyên thỉ ngay từ hồi Bụt còn tại thế, trong tinh thần Phật Giáo Đại Thừa. Phật Giáo Đại Thừa có cái nhìn rất cởi mở, không gò bó và thật là mầu nhiệm. Tôi muốn trình bày Phật giáo từ hồi Bụt còn tại thế bằng tinh thần thoáng rộng này. Khi ta sử dụng Phật Giaó Đại Thừa để tìm hiểu, nhìn sâu vào Phật Giáo nguyên thỉ, ta có thể khám phá ra biết bao nhiêu là điều kỳ diệu, sâu sắc hơn nhiều. Ta ý thức rằng những lời dạy sâu sắc nhất của Phật Giáo đại thừa có thể tìm ra trong các kinh điển nguyên thỉ. Những tư tưởng phóng khoáng của đại thừa đã có rành mạch trong các kinh nguyên thỉ.
Những hạt giống của Phật giáo đại thừa đầy dẫy trong Phật giáo nguyên thỉ. Thành ra khi ta dùng từ Phật giáo nguyên thỉ điều đó không có nghĩa là ta loại ra ngoài những Phật giáo khác, những truyền thống mới khai triển sau này. Tôi chỉ muốn đem tất cả các truyền thống về tận gốc nguyên thỉ của họ. Phật giáo nguyên thỉ được xem như mẫu số chung của tất cả các truyền thống khác, mẫu số chung của mỗi truyền thống Phật giáo. Thế nên tôi đã cống hiến những điều Bụt dạy ngay từ những năm đầu của quá trình dạy dỗ của Ngài, trong tinh thần đại thừa. Phật giáo Bụt dạy những năm đầu rất đơn giản – mà cũng rất thâm sâu. Nhiều học giả đã làm cho Phật giáo trở nên rắc rối, biến đạo Phật thành một loại siêu hình học, một loại triết học. Một số sinh viên Phật học đã bỏ quá nhiều thì giờ cho những hệ thống tư duy này và không có thì giờ tu tập. Cũng như thiền sư Lâm Tế (Trung quốc gọi là Linji, Nhật gọi là Rinzai) Ngài học Phật quá nhiều nhưng sau đó cảm thấy không đủ. Vì thế ngài bỏ hết những học thuyết và bắt đầu thực hành.
.
Melvin McLeod: Bởi vì Phật giáo ở phương Tây còn quá sơ khai, trong giai đoạn đầu, Thầy có nghĩ rằng có thể Phật giáo nguyên thỉ sẽ hợp với người Tây Phương hơn là những điều dạy dỗ đã được khai triển về sau phải không?
Thiền Sư Làng Mai: Không phải là một giáo lý riêng biệt nào mới thích hợp với thời đại nào mà quan trọng là cách ta hiểu điều đó và cách ta sử dụng nó. Nếu ta là một học giả và ta chỉ sử dụng trí năng của ta mà thôi thì ta có thể giải thích giáo lý theo cách này, trong khi nếu ta là một hành giả thực tập thật tình thì có thể ta sẽ khám phá được chiều sâu của giáo lý và tiếp xúc được với tuệ giác phát sinh từ sự thực tập của ta. Và nhờ thế, ta có thể trình bày cái giáo lý kia một cách hoàn toàn khác hẳn với người chỉ dùng trí năng. Thành ra vấn đề là không phải giáo lý này hay hơn, hay giáo lý kia thích hợp hơn, vấn đề là biết cách áp dụng thật tình điều mình học và trình bày ra sự tu tập của mình cho thích hợp, đồng thời giúp người nghe hành trì cho có hiệu quả. Tuy nhiên, tôi rất là ngạc nhiên mà thấy bài pháp thoại đầu tiên do Bụt thuyết vẫn còn thích hợp cho thời đại chúng ta. Sau 2500 năm, bài thuyết pháp đầu tiên vẫn có giá trị vững chãi. Trong bài thuyết pháp đầu tiên ta tìm được đầy đủ những điều Bụt dạy mà ta có thể sử dụng suốt đời. Điều đó thật đáng kinh ngạc.
.
Melvin McLeod: Trong những điều Thiền Sư dạy, Thầy nhấn mạnh đến yếu tố tăng thân, yếu tố phải có một nhóm người cùng tu tập chung, Thầy dạy điều đó nhiều hơn các thầy khác. Tại sao điều đó lại quan trọng như thế đối với Thầy ?
Thiền Sư Làng Mai: Xây dựng tình huynh đệ, tình chị em thật là thiết yếu trong tăng thân, nếu tăng thân hạnh phúc thì họ có thể là nơi nương tựa cho nhiều người. Chúng tôi bắt đầu xây dựng tăng thân của chúng tôi từ nhiều thập niên trước và nó đã trưởng thành làm một tăng thân chính chắn và vững chãi. Có nhiều người đã từng tu tập lâu năm đến tham dự một khóa tu thì khóa tu ấy sẽ có năng lượng vững chãi của tăng thân. Trong kinh có kể chuyện về quốc vương Ba Tư Nặc của thành Xá Vệ. Ngài gặp Đức Thế Tôn lần cuối, khi ấy cả hai đều đã 80 tuổi, nhà vua nói: “ Bạch đức Thế Tôn, mỗi khi con gặp tăng thân của ngài thì con thấy được ngài rõ hơn và con càng quý trọng ngài hơn.” Tôi thấy thật ý nghĩa khi thiên hạ có thể thấy được Bụt qua tăng thân của Người. Tăng thân là công trình, là tác phẩm lớn nhất của Bụt. Bụt là một nghệ sĩ và tăng thân là công trình nghệ thuật của người nghệ sĩ kia.Thành ra, Bụt vẫn còn đang sống cho đến ngày hôm nay trong tăng thân. Khi mà bạn thấy các thầy, các sư cô cùng các bạn cư sĩ tu tập nghiêm túc, thảnh thơi và an lạc là các bạn có thể thấy được sự hiện diện của Bụt .
.
Melvin McLeod: Gần đây Thầy đã kêu gọi tăng thân cũng như những người đã ủng hộ những nguyên tắc hoà bình nên ủng hộ Tổng Thống Obama. Vì sao mà Thầy làm như vậy ?
Thiền Sư Làng Mai: Chắc anh biết, tôi gặp Mục Sư Martin Luther King Jr. từ năm 1966. Chúng tôi bàn với nhau về sự cần thiết của một cộng đồng cùng tu tập chung để đối kháng lại thế giới bạo động, tôi đã dùng từ tăng thân (theo ngôn từ Phật giáo) còn Martin thì dùng chữ (beloved community) cộng đồng dễ thương. Chúng tôi bàn về nhân quyền, về hòa bình, về bất bạo động và v.v.. Những điều Mục Sư Martin Luther King Jr. và tôi đang làm rất gần gũi nhau – xây dựng một nhóm người, nhiều nhóm người cùng sống bên nhau, hợp nhất và làm cho hài hòa những hạt giống trí tuệ, từ bi và bất bạo động của nhau. Lời tuyên bố này của tôi về Obama chỉ là sự tiếp nối của công trình ấy. Chúng tôi đã cùng gieo trồng những hạt giống ấy và khi Obama biểu hiện, chúng tôi thấy Obama có khả năng nói lời ái ngữ, lời hiểu biết và không kỳ thị. Nhưng Obama cũng rất mong manh – ông không thể nào tiếp tục là Obama nếu ông không được sự ủng hộ của một cộng đồng khá vững chãi, của những người đã tin tưởng nơi những nguyên tắc hoà bình, bất bạo động như ông… Có thể trong tương lai những cố vấn quân sự và kinh tế của ông sẽ kéo ông đi về nẻo khác. Vì lẽ đó nên tôi kêu gọi tăng thân phải ủng hộ Obama, để cho ông tiếp tục còn là ông, giữ vững lập trường mà trước đó ông đã chứng minh là ông đã làm được, như là dùng lời ái ngữ và giúp lấy ra những tri giác sai lầm giữa Mỹ Châu và thế giới của người A Rập. Có rất nhiều dấu hiệu chứng minh rằng Obama đã có ý định, đã có khát khao thực hiện hòa bình, muốn xây dựng tình huynh đệ và có sự không kỳ thị v.v.. Ủng hộ Obama không phải là ủng hộ một đảng phái chính trị nhưng là ủng hộ cách làm chính trị mà hiện tại ta không thường thấy trong thế giới các chính trị gia nơi chính trường. Obama đại diện cho một loại tỉnh thức mới, một loại thao thức mới, một loại hành động mới. Điều đó thật đẹp nhưng làm sao mà giữ cho cái thao thức mới ấy được tiếp tục lâu dài? Hiện tại chung quanh Obama có quá nhiều yếu tố dường như đang kéo Obama đi về nẻo khác. Thế nên ta phải động viên tối đa các cộng đồng tu tập đang đi về hướng hòa bình nhân bản đó, ta phải giúp che chở ông Obama để Obama còn có thể tiếp tục là Obama càng lâu càng tốt. Điều đó không phải là ủng hộ một đảng phái mà là ủng hộ một ước vọng thâm sâu, một thao thức hướng về nẻo chân thiện mỹ.
.
Melvin McLeod: Thầy sắp cho một pháp thoại ở Thị Xã Nữu Ước với đề tài: Xây dựng một Xã Hội hòa bình và Từ Bi” Thế nào là con đường đưa tới một xã hội lành mạnh và từ bi? Năm phép tu tập chánh niệm mà Thầy sử dụng từ Năm giới của người Phật tử truyền thống để biến thành những điều phát nguyện thích hợp với tình huống hiện thời của thế giới. Đó có phải là phương châm không?
Thiền Sư Làng Mai: Thường thì tuệ giác tương tức sẽ giúp đẩy lui sự kỳ thị, sợ hãi và cách nhìn nhị nguyên sự việc. Chúng ta liên hệ thâm sâu với nhau dù trong khổ đau hay trong hạnh phúc, vì thế cho nên tuệ giác tương tức (liên hệ thâm sâu) phải được xem là nền tảng cho bất cứ hành động nào có thể đem tới hòa bình, tình huynh đệ và giúp lấy ra bạo động, tuyệt vọng. Tuệ giác này có mặt trong tất cả các truyền thống tâm linh. Ta chỉ cần trở về nhà với chính truyền thống của ta và gắng làm sống lại với những hạt giống ấy.
Năm cách tu tập chánh niệm là những pháp môn rất cụ thể để thực tập thương yêu. Trong truyền thống Phật giáo của chúng tôi, chúng tôi cứ pháp đàm để tìm cách làm sao áp dụng năm giới một cách hữu hiệu trong đời sống hằng ngày. Năm giới quý báu ấy là để hành động, chứ không phải để suy luận và ức đoán. Ghi tên để xin thọ nhận năm phép tu tập chánh niệm ấy không phải là ký tên ủng hộ một kiến nghị mà là làm cho nó trở thành sự sống của chính mình, nó là con đuờng lý tưởng của mình. Và bạn sẽ rất hạnh phúc vì bạn biết bạn đã có một con đường của hiểu biết và thương yêu. Nếu mà mình biết là mình đã có con đuờng của hiểu và thương rồi thì mình không có lý do gì mà sợ hãi về tương lai của mình nữa cả. Và mình có thể chia sẻ con đường lý tưởng của mình, chia sẻ cái cách mình tu tập để nuôi dưỡng và phát triển hiểu biết và tình thương với các bạn thuộc truyền thống khác. Họ không cần trở thành Phật tử, họ chỉ cần trở về truyền thống tâm linh của họ, sống cho sâu sắc và tìm cho ra những gì tương đương với năm phép tu chánh niệm của Phật tử nơi truyền thống của các bạn. Mục đích của ta không phải là để thay đổi niềm tin của các bạn từ truyền thống khác và biến họ thành Phật tử, mà chỉ là chia sẻ con đường của hiểu biết và thương yêu. Bạn đó vẫn tiếp tục là tín hữu Do Thái giáo, Cơ Đốc giáo hay Hồi giáo. Và bạn cứ làm như chúng tôi đang làm. Chúng tôi dùng ngôn từ Phật giáo, còn bạn thì nên dùng ngôn từ Hồi giáo mà tu tập và chúng ta sẽ cùng đi đến một kết quả như nhau. Thế nên ta mới có thể gọi là một đường hướng tâm linh toàn cầu hay là một nền đạo đức toàn cầu.
.
Melvin McLeod: Quả thật là mầu nhiệm nếu tất cả các vị lãnh đạo tâm linh từ nhiều truyền thống khác nhau có thể đến cùng nhau và bàn bạc làm thế nào để có một nền đạo đức toàn cầu để mọi người đều có thể cùng tu tập chung.
Thiền Sư Làng Mai: Có thể họ cũng không cần đến với nhau cùng ngồi chung một chỗ. Họ chỉ cần ngồi yên nơi chốn của họ và tu tập làm khơi dậy cái hiểu cho thâm sâu và mở rộng tình thương cho mọi người, mọi loài. Đó là cách gặp nhau sâu sắc nhất.
Melvin McLeod: Cám ơn thầy vô cùng. Thầy thật là từ bi, Thầy cho chúng tôi từng ấy thì giờ. Đây là một danh dự lớn cho tôi và tôi cũng biết đọc giả chúng tôi sẽ vô cùng lợi lạc.
___________
Shambhala Sun | July 2010
You’ll find this article on page 44 of the magazine.
Nguồn: Làng Mai
Hạnh nguyện
Phương Khê nội viện, mùa xuân, ngày 31 tháng 05 năm 2009,
Thân gửi các con của Thầy, gần và xa!
Công phu sáng trong sách “Thiền môn nhật tụng” có một bài văn sám mà ngày xưa khi còn làm sa di Thầy rất thích tụng. Văn của bài sám rất hay, và nội dung của bài sám rất có công năng nuôi dưỡng chí nguyện của người tu. Mỗi lần tụng đọc bài sám, chú Phùng Xuân thường để cho lời kinh ôm ấp thấm sâu vào từng huyết quản, từng tế bào của cơ thể.
Bài sám văn này là một giấc mơ thật đẹp của người tu, và Thầy rất biết ơn Thiền sư Di Sơn đã viết ra bài sám văn ấy. Các con cũng đã biết bài ấy rồi, đó là bài Sám Quy Mạng. Tên của nó là Phát Nguyện Văn. Tác giả bài Sám Quy Mạng (Phát Nguyện Văn) này là Thiền sư Kiểu Nhiên đời Đường, văn chương rất lỗi lạc. Những văn bia về các Thiền sư sơ kỳ Thiền Tông đều do một tay Ngài viết.
Di Sơn là tên núi; vì kính quý Ngài nên dân chúng gọi Thiền sư là Di Sơn thay vì Kiểu Nhiên. Thiền sư họ Tạ, tự là Thanh Trú. Tác phẩm để lại cho đời là “Trữ sơn tập”, mười cuốn. Trong sách “Nhị khóa hợp giải”, Thiền sư Quán Nguyệt có nói: “Nếu bạn không thích bài Sám Quy Mạng này thì có thể thay vào bằng một bài khác như bài Khế Thủ, bài Thập Phương Tam Thế Phật, hay bài Nhất Tâm Quy Mạng”.
Nhưng ai lại không thích bài Sám Quy Mạng này! Thầy nghĩ là đã có biết bao nhiêu thế hệ người trẻ xuất gia đã được bài Sám này nuôi dưỡng, vỗ về và an ủi. Hồi chưa tới tuổi hai mươi, Thầy đã có ước mơ dịch bài này ra quốc văn. Và giấc mơ ấy đã được thành tựu khi Thầy còn là một vị giáo thọ trẻ tuổi giảng dạy tại Phật Học Đường Nam Việt. Thầy đã dịch bài Sám Quy Mạng ra tiếng Việt trong thể thơ lục bát.
Nhiều vị học tăng và học ni thời ấy của Phật Học Đường Nam Việt (Chùa Ấn Quang) đã học thuộc lòng. Và bài Sám ấy hiện đang có mặt trong sách “Nhật tụng thiền môn 2010” của chúng ta. Phần lớn những câu văn trong bài Sám đều là những câu bốn chữ hay sáu chữ, xen lẫn với nhau rất khéo léo, thành ra âm điệu bài tụng có lúc thì êm dịu, có lúc thật trầm hùng.
“Kiếp sau, nhờ hạt giống trí tuệ linh thiêng gieo trồng trong kiếp này, con xin được sinh trở lại trong một môi trường có văn hóa, lớn lên được gặp một vị Thầy sáng và được xuất gia từ hồi còn là thiếu nhi. Sáu căn của con đều sẽ được thông lợi và ba nghiệp của con cũng sẽ được thuần hòa.Con sẽ không bị thói đời làm ô nhiễm và con sẽ sống một cuộc đời phạm hạnh thanh cao.
Con sẽ hành trì các giới luật một cách nghiêm minh. Không vướng vào duyên nghiệp thế gian, con sẽ thực tập các uy nghi một cách nghiêm túc và con sẽ biết bảo hộ cho tất cả mọi loài chúng sanh, bắt đầu từ những sinh vật rất nhỏ bé”. “Con sẽ tu tập theo chánh pháp và liễu ngộ được giáo pháp Đại thừa, nhờ vậy mà con sẽ khai mở được cánh cửa hành động của lục độ và thành tựu được những gì mà các vị hành giả khác phải trải qua ba A tăng kỳ kiếp mới thành tựu được”.
Đọc những đoạn vừa qua các con có thấy đó là một giấc mơ vĩ đại không? Nếu không có hạt giống của bồ đề tâm, nếu không có hạt giống của hạnh nguyện Bồ tát thì làm sao làm phát khởi được một ước muốn vĩ đại như thế? Các con hãy cùng Thầy đọc tiếp:
“Con sẽ thiết lập được đạo tràng tu học khắp nơi khắp chốn, con sẽ phá tan được muôn trùng mạng lưới của sự nghi ngờ. Con sẽ hàng phục được mọi ma chướng và sẽ truyền lại ngọn đèn chánh pháp để cho ba ngôi Tam Bảo sẽ mãi mãi tiếp tục ngời sáng trong tương lai.
Con sẽ phụ tá cho chư Bụt mười phương mà không bao giờ cảm thấy mệt mỏi; con sẽ tu tập thành tựu được tất cả các pháp môn. Con sẽ thực tập trên cả hai bình diện xã hội và trí tuệ để làm lợi ích cho chúng sanh khắp nơi. Con sẽ đạt tới sáu phép thần thông và sẽ thành tựu được quả vị Phật đà ngay trong một kiếp”.
“Sau đó con sẽ không xa lìa pháp giới; trái lại con sẽ đi vào và có mặt trong vạn nẻo trần gian. Năng lượng từ bi của con sẽ không thua gì năng lượng từ bi của Bồ tát Quan Âm, đại dương hạnh nguyện của con cũng sẽ bao la như đại dương hạnh nguyện của Bồ tát Phổ Hiền”.
“Ngay trong cõi này và ở các cõi khác, con sẽ ứng hiện thành những sắc thân khác nhau để tuyên dương diệu pháp”. “Nơi những nẻo đường địa ngục và quỷ đói, con sẽ hoặc phóng ra những đạo hào quang lớn, hoặc tự mình hiện thần biến tướng: bất cứ ai thấy được dung mạo con hoặc nghe đến danh hiệu con đều có khả năng phát tâm bồ đề và lập tức vượt thắng mọi khổ đau của kiếp luân hồi”.
“Những vùng đất cháy khô cằn như vạc lửa, hay những con sông băng tuyết lạnh giá, con sẽ làm cho chúng biến thành những khu rừng thơm”. “Vào những thời mà tật dịch bệnh khổ lan tràn, con sẽ hóa hiện ra vô số dược thảo thuốc men, chữa lành được cả những chứng bệnh trầm kha, gặp khi nạn đói hoành hành, con sẽ hóa hiện ra gạo lúa dồi dào để giảm nghèo cứu đói”. “Không có công tác nào làm lợi ích cho nhân gian mà con sẽ từ nan”.
“Sau đó, con sẽ giúp cho tất cả mọi người, trong đó có kẻ thân và người thù trong nhiều kiếp, cùng với bà con quyến thuộc đời này, để ai cũng có thể buông bỏ được những sợi dây ái nhiễm ràng buộc, để cùng với tất cả chúng sinh thực hiện được đạo giác ngộ”. “Hư không kia còn có thể có giới hạn, nhưng nguyện ước con thì không có chỗ cùng.
Con nguyện cho tất cả các loài, hữu tình và vô tình, đều đạt tới quả vị nhất thiết chủng trí”. Những lời kinh trong Sám văn ngày xưa đã tưới tẩm hạt giống Bồ đề của chú sa di nhỏ vào mỗi buổi sáng công phu. Không biết vì lý do gì mà chú cứ tin là giấc mơ kia sẽ có thể thành tựu, dù chung quanh chú chưa có dấu hiệu nào chứng tỏ được điều đó, và chưa thấy ai đang làm được điều đó.
Lời kinh quá đẹp khiến sau này Thầy đã lấy chữ trong ấy để đặt pháp hiệu cho các vị thọ giới tại Làng Mai. Ví dụ pháp tự Chân Hương Lâm của Sư thầy Đàm Nguyện ở Hà Nội. Hương lâm là những khu rừng thơm. “Những vùng đất cháy khô cằn như vạc lửa hay những con sông băng tuyết lạnh giá, con sẽ làm cho chúng biến thành những khu rừng thơm – hỏa hoạch băng hà chi địa biến tác hương lâm.” Thật là vừa nên thơ vừa hợp với ý hướng bảo hộ sinh môi. Lời kinh quá hùng tráng thành thử mình có cảm tưởng mình không còn là một tín đồ đang cầu xin ơn phước, mà là một vị đại sĩ có thần lực độ đời rất vĩ đại:
“Năng lượng từ bi của con sẽ không thua gì năng lượng từ bi của Bồ tát Quan Âm, đại dương hạnh nguyện của con cũng sẽ bao la như đại dương hạnh nguyện của Bồ tát Phổ Hiền – đẳng Quan Âm chi từ tâm, hành Phổ Hiền chi nguyện hải”. Người trì tụng Sám văn không còn mặc cảm thua kém nữa, và thấy mình cũng có thể làm được những gì mà các vị Bồ tát lớn đang làm. Những lời kinh như thế làm chấn động cả tâm can của người hành giả. “Bất cứ ai thấy được dung mạo con hoặc nghe đến danh hiệu con đều sẽ có khả năng phát tâm Bồ đề và vĩnh viễn vượt thắng mọi khổ đau của kiếp luân hồi – phàm hữu kiến ngã tướng, nãi chí văn ngã danh, giai phát Bồ đề tâm, vĩnh xuất luân giao hồi khổ.”
Và như thế thì con cũng sẽ không thua bất cứ một vị Phật nào hay một vị Bồ tát lớn nào trong quá trình hành đạo. Giấc mơ của bài Sám Quy Mạng chỉ là giấc mơ suông hay một giấc mơ có thể biến thành hiện thực? Nhiều thế hệ hành giả, trong đó có các con, đã từng tụng đọc Sám văn này, và đã có thể từng đặt câu hỏi ấy. Ngày xưa, Thầy không đặt câu hỏi ấy. Tuy là chung quanh mình chưa thấy dấu hiệu nào chứng tỏ giấc mơ kia có thể trở thành sự thực, nhưng Thầy vẫn ôm ấp giấc mơ đó và tin rằng nó sẽ trở thành hiện thực. Những thập niên bốn mươi và năm mươi là những thập niên của đói kém của chiến tranh.
Giới xuất gia tìm đủ mọi cách để duy trì sự thực tập trong phạm vi chùa viện của mình nhưng cũng đã gặp phải không biết bao nhiêu khó khăn. Ngay những người trẻ trong giới xuất gia cũng bị tù đày, thủ tiêu và áp bức. Là một thầy tu trẻ Thầy đã từng đọc lịch sử Lý Trần và đã thấy rằng nếu đạo Bụt đã có khả năng giúp cho đất nước hùng mạnh và thái bình trong những triều đại ấy thì đạo Bụt cũng có thể làm được như thế trong thời đại hiện tại. Tại sao không?
Đó là câu hỏi của Thầy, dù đạo Bụt vào những thập niên ấy vẫn chưa thoát ra được trạng thái suy đồi cần phải vượt thoát. Có lẽ cái thấy ấy về đạo Bụt Lý Trần đã cho Thầy một niềm tin rằng giấc mơ của Sám Quy Mạng không phải chỉ là một giấc mơ suông mà là một giấc mơ có thể trở thành hiện thực.
Hồi còn là vị giáo thọ trẻ ở Ấn Quang, Thầy đã dịch Sám Quy Mạng với một ngôn ngữ khiêm cung. Nguyên văn: “Năng lượng từ bi của con sẽ không thua gì năng lượng từ bi của Bồ tát Quán Âm, đại dương hạnh nguyện của con cũng sẽ bao la như đại dương hạnh nguyện của Bồ tát Phổ Hiền” đã được Thầy dịch là “Mưa từ rưới khắp nhân thiên, mênh mông biển hạnh lời nguyền độ tha.”
Nguyên văn: “Bất cứ ai thấy được dung mạo của con hoặc nghe đến danh hiệu con đều sẽ có khả năng phát tâm bồ đề và vĩnh viễn vượt thắng mọi khổ đau của kiếp luân hồi” đã được Thầy dịch là: Chỉ cần thấy dạng nghe danh, muôn loài thoát khỏi ngục hình đớn đau.” Mấy mươi năm ở hải ngoại không có cơ hội ôn lại bản dịch ấy, Thầy chỉ còn nhớ được một vài đoạn.
May quá, Hòa thượng Như Huệ, Viện chủ chùa Pháp Hoa (ở Úc Đại Lợi) trong dịp về chứng minh đại giới đàn Nến Ngọc tổ chức ở Làng Mai mùa hè 1996 đã đọc lại cho Thầy chép xuống toàn bài. Hòa thượng Như Huệ đã từng là học tăng trong Phật học đường Nam Việt, và đã học thuộc lòng bản dịch của Sám văn Quy Mạng. Nhờ đó mà bản dịch ngày nay còn được giữ lại trong sách Nhật Tụng Thiền Môn.
Thầy nghĩ là Thầy trò chúng ta cần đọc tụng Sám văn Quy Mạng ít nhất mỗi tuần một lần, để tâm bồ đề được tiếp tục nuôi dưỡng. Tâm bồ đề là nguyện ước, là giấc mơ của người hành giả chân chính. Tâm bồ đề bị soi mòn thì chúng ta không còn năng lượng để đi tới mà thực hiện giấc mơ.
Khuya nay, trong giờ thiền tọa, chúng ta hãy cùng nhau quán chiếu để thấy rằng giấc mơ kia đang từ từ biến thành hiện thực. “Kiếp sau xin được làm người, sinh ra gặp pháp sống đời chân tu, dắt dìu nhờ bậc minh sư”, điều này ta đã thực hiện được. “Sáu căn ba nghiệp thuần hòa, không vương tục lụy theo đà thế nhân, một lòng tấn đạo nghiêm thân, giữ gìn phạm hạnh nghiệp trần lánh xa”, đó là sự thực tập hành trì giới luật và uy nghi hàng ngày của chúng ta.
“Đạo tràng dựng khắp nơi nơi, lưới nghi phá hết trong ngoài sạch không”, đó là những gì mà Thầy trò chúng ta đang nỗ lực thực hiện. Tăng thân hiện giờ đang có mặt khắp nơi, mỗi quốc gia trên thế giới đều có hàng chục hoặc hàng trăm đoàn thể tu học theo pháp môn chánh niệm, gọi là Tăng thân chánh niệm (Communities of mindful living).
Những thành phố lớn như: Nữu Ước, Luân Đôn, Los Angeles, Paris, Amsterdam, Berlin, đều đã có nhiều Tăng thân. Những khóa tu tổ chức khắp nơi, những tác phẩm viết về đạo Bụt đi vào cuộc đời đã trở thành một mạng lưới chánh pháp có mặt khắp nơi, đang nỗ lực phá tan được những ngộ nhận và nghi ngờ đối với đạo Bụt, cho thế giới thấy rằng đạo Bụt là một nền nhân bản có tính khoa học, không phải là tôn giáo thần quyền, mê tín dị đoan, tiêu cực yếu đuối. “Lưới nghi phá hết trong ngoài sạch không” là như thế.
“Truyền đăng Phật pháp nối dòng vô chung”. Chúng ta đã đào tạo được khá nhiều các vị giáo thọ và giáo thọ tập sự, xuất gia và tại gia, số người tiếp nhận truyền đăng cho đến nay đã lên tới trên 300 vị. “Thuốc thang cứu giúp cho đời, áo cơm cứu giúp cho người bần dân, bao nhiêu lợi ích hưng sùng, an vui thực hiện trong vòng trầm luân”. Đây là công tác xã hội, đây là một phần của đạo Phật ứng dụng, của đạo Phật đi vào cuộc đời.
Chúng ta đã lập được Trường Thanh niên Phụng sự xã hội đào tạo trên 600 tác viên và hàng ngàn trợ tác viên và cảm tình viên (làm việc công quả mà không nhận phụ phí), thành lập các làng Hoa Tiêu và làng Tự Nguyện để nâng cao phẩm chất sự sống ở nông thôn về cả bốn mặt giáo dục, y tế, kinh tế và tổ chức.
Các tác viên xã hội đã làm việc cứu trợ nạn nhân chiến tranh, chăm sóc các trại tị nạn, có trại lên đến 11.000 người, thành lập các trung tâm định cư trên những vùng đất mới, tái thiết lại những làng bị bom đạn tàn phá. Chúng ta có Ủy ban Tái thiết và Phát triển xã hội, làm việc với Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất (1972 – 1975). Chúng ta đã có chương trình bảo trợ trên 10.000 trẻ em mồ côi vì chiến tranh.
Chúng ta đã có chương trình Máu Chảy Ruột Mềm cứu trợ thuyền nhân trên biển. Chúng ta đã thành lập tổ chức Pour les Enfants du Vietnam, rồi Partage avec les Enfants du Monde, cứu giúp cho trẻ em 17 nước trong đó có Việt Nam. Chúng ta đã có chương trình Hiểu và Thương, để cứu trợ lũ lụt, giúp trẻ em nghèo thiếu ăn và thất học, mở lớp dạy nghề, xây cầu, đào giếng nước ngọt, mở những lớp học bán trú ở các vùng sâu vùng xa, trả lương một ngàn cô giáo và bảo mẫu. (*) Cái hay là ở chỗ trong khi làm công tác xã hội, các thành phần trong Tăng thân vẫn giữ được sự thực tập giới luật, thiền ngồi, thiền đi, xây dựng tình huynh đệ và học đi như một dòng sông… “Không có công việc nào lợi ích cho nhân gian mà con sẽ từ nan – đản hữu lợi ích vô bất hưng sùng”, đó là hạnh nguyện của chúng ta.
Các vị giáo thọ của chúng ta, trong đó có rất nhiều vị còn ở tuổi thanh xuân, đang thực sự mang đạo Bụt đi vào cuộc đời, một đạo Bụt nhập thế. Chúng ta đã mở những khóa tu đặc biệt để giúp cho mọi giới, những khóa tu dành cho giới làm công tác xã hội, giới văn nghệ sĩ, tài tử điện ảnh… có khóa tu đông đến 2.000 người như khóa tại Washington DC cho các nhà tâm lý học và tâm lý trị liệu, những khóa tu dành cho giới giáo chức, dành cho giới thương gia, dành cho giới y sĩ và y tá, dành cho các nhà chính trị và dân biểu quốc hội, dành cho giới cảnh sát và nhân viên công lực, giới tranh đấu cho hòa bình và nhân quyền, giới bảo hộ sinh môi… Chúng ta đã đi vào các bệnh viện và các nhà tù để giúp tổ chức tu tập và chuyển hóa…
Từ đạo Bụt nhập thế chúng ta đi vào đạo Bụt ứng dụng. Chúng ta mở phong trào Wake Up cho các bạn trẻ khắp nơi trên thế giới, những đoàn thể tu tập theo chánh pháp để phục vụ cho một xã hội lành mạnh và có từ bi. Chúng ta lập Viện Phật học Ứng dụng, cung cấp các khóa tu cho giới phụ huynh có khó khăn với con cái, cho giới thanh niên thiếu nữ đang có khó khăn với bố mẹ, cho những ai vừa khám phá ra là mình bị bệnh nan y, cho những ai có người thân mới mất.
Ai cũng có thể đến để ghi tên học hỏi và thực tập mà không cần phải quy y. Chúng ta cống hiến đạo Bụt cho thế giới không phải một tôn giáo mà một nghệ thuật sống với những phương pháp chuyển hóa và trị liệu… Chúng ta đang nỗ lực thực tập để bảo hộ sinh môi, tự mình thực tập và kêu gọi mọi người thực tập sống như thế nào để có thể có được một tương lai cho trái đất, để chuyển ngược được quá trình hâm nóng địa cầu.
Tu viện Lộc Uyển của chúng ta hiện giờ đã hoàn toàn chỉ sử dụng năng lượng ánh sáng mặt trời. Tất cả các đạo tràng và các Tăng thân của chúng ta trên thế giới đang thực tập tiêu thụ trong chánh niệm, mỗi tuần có một ngày không sử dụng xe hơi, xe gắn máy… Tất cả những điều này chứng tỏ là chúng ta đang quyết tâm thực hiện giấc mơ mà không phải chỉ ngồi đó để quán tưởng và để cho bài Sám ru chúng ta trong một giấc mơ thật đẹp.
Trong những năm gần đây, đạo Bụt với sự thực tập chánh niệm đã dần dần đi vào các lĩnh vực y học, khoa học, luật học và xã hội học. Tinh thần bất nhị và bao dung, không kẹt vào giáo điều của đạo Bụt bắt đầu được thế giới nhận biết, và trên bước đường toàn cầu hóa đạo Bụt có thể góp phần quan trọng trong việc chế tác một nền tâm linh đạo đức toàn cầu. Chúng ta biết giấc mơ có thể và đang trở thành hiện thực.
Nếu chúng ta không bị vướng vào địa vị, tiền bạc, tiếng khen, chức vụ, v.v.., nếu chúng ta biết đi với Tăng thân như một dòng sông mà không phải như một giọt nước riêng lẻ thì chúng ta sẽ có cơ hội nhiều hơn để thực hiện được giấc mơ. Có phải thế không các con? Thầy mong các con đọc xong thư này thì góp ý với Thầy.
Thầy của các con,
Nhất Hạnh
30 CÂU NÓI CỦA THIỀN SƯ THÍCH NHẤT HẠNH
GIÚP BẠN SỐNG HẠNH PHÚC HƠN….!!!!
1. Thấu hiểu nỗi đau của người khác là món quà to lớn nhất mà bạn có thể trao tặng họ. Thấu hiểu là tên gọi khác của yêu thương. Nếu bạn không thể thấu hiểu, thì bạn chẳng thể yêu thương.
2. Cũng như một người làm vườn biết cách dùng phân bón để cho ra những bông hoa tươi đẹp, người tu tập biết tận dụng nỗi đau khổ để tạo ra hạnh phúc.
3. Tự do có được nhờ tu tập và thói quen. Bạn phải rèn luyện mình cách bước đi như một người tự do, ngồi như một người tự do và ăn như một người tự do. Chúng ta phải rèn luyện bản thân về cách sống như thế nào.
4. Nói “Tôi yêu bạn” có nghĩa là “Tôi có thể mang tới cho bạn sự bình yên và hạnh phúc”. Để làm được điều đó, trước tiên, chính bạn phải là người có được những điều đó đã.
5. Một người tức giận là do không giải quyết được những đau buồn của mình. Họ là nạn nhân đầu tiên của sự đau buồn đó, còn bạn là người thứ hai. Hiểu được điều này, lòng từ bi sẽ nảy nở trong tim và sự tức giận sẽ tan biến. Đừng trừng phạt họ, thay vào đó, hãy nói gì đó, làm gì đó để vơi bớt nỗi đau buồn.
6. Chúng ta được tạo ra từ ánh sáng. Chúng ta là những đứa trẻ của ánh sáng. Chúng ta là con cái của thần mặt trời.
7. Mỗi người chúng ta nên tự hỏi mình: Tôi thật sự muốn gì? Trở thành người thành công số 1? Hay đơn giản là người hạnh phúc? Để thành công, bạn có thể phải hy sinh hạnh phúc của mình. Bạn có thể trở thành nạn nhân của thành công, nhưng bạn không bao giờ là nạn nhân của hạnh phúc.
8. Hãy bước đi như thể bạn đang hôn trái đất bằng bàn chân của mình.
9. Khi một người làm bạn đau khổ, ấy là vì ẩn sâu bên trong, nỗi đau khổ của anh ta đang tràn trề. Anh ta không đáng bị trừng phạt. Anh ta cần sự giúp đỡ.
10. Đôi khi niềm vui mang tới nụ cười. Nhưng cũng đôi khi, chính nụ cười mang tới niềm vui.
11. Hạnh phúc là được là chính mình. Bạn không cần phải được thừa nhận bởi người khác. Chỉ cần chính bạn thừa nhận mình là được rồi.
12. Bởi vì bạn đang sống nên mọi thứ đều có thể thành sự thật.
13. Hãy cười, thở và bước đi thật chậm.
14. Mỗi sáng thức dậy, tôi lại mỉm cười. Hai mươi tư tiếng mới mẻ đang ở trước mắt tôi. Tôi nguyện sống trọn cho từng phút giây và xem xét mọi thứ bằng ánh nhìn từ bi.
15. Những mầm mống khổ đau trong bạn có thể thật mạnh mẽ, nhưng đừng đợi cho đến khi mọi khổ đau đi hết rồi mới cho phép mình được hạnh phúc.
16. Nhiều người cho rằng sự náo nhiệt là hạnh phúc. Nhưng khi quá náo nhiệt, sẽ không có bình yên. Hạnh phúc thật sự dựa trên sự bình yên.
17. Hành động của tôi nói lên tôi là ai.
18. Niềm hy vọng là điều rất quan trọng. Nó giúp cho hiện tại bớt khắc nghiệt. Nếu ta hy vọng rằng ngày mai sẽ tốt đẹp hơn, ta sẽ chịu đựng được khó khăn của hôm nay.
19. Nếu bạn yêu ai đó nhưng hiếm khi dành thời gian cho họ thì đó không phải tình yêu thật sự.
20. Tình yêu của bạn phải khiến cho người yêu cảm thấy tự do.
21. Thời khắc hiện tại tràn ngập niềm vui và hạnh phúc. Chỉ cần bạn để tâm, bạn sẽ nhìn thấy chúng
22. Tôi tự hứa với lòng mình rằng tôi sẽ vui sống từng phút giây mà đời ban cho tôi.
23. Tất cả suy nghĩ, lời nói, hành động của bạn đều mang dấu ấn của riêng bạn.
24. Con người đau khổ là vì các thành kiến. Khi nhìn mọi thứ cởi mở hơn, chúng ta sẽ tự do và chẳng còn khổ đau nữa.
25. Nếu chúng ta bình an, chúng ta hạnh phúc, chúng ta có thể cười. Và mọi người trong gia đình, trong xã hội có thể hưởng niềm vui từ chính sự bình an của ta.
26. Cội nguồn của tình yêu nằm sâu trong mỗi chúng ta. Chúng ta có thể giúp người khác hạnh phúc. Một lời nói, một hành động, một suy nghĩ cũng có thể làm vơi nỗi buồn và tăng hạnh phúc cho người khác.
27. Tôi đã tới. Tôi đang ở nơi cần ở. Điểm đến của tôi nằm trên mỗi bước đi.
28. Chúng ta cần học cách nghỉ ngơi và thư giãn. Nó giúp ta phòng chống bệnh tật và giảm ngừa căng thẳng. Nó giúp ta có tâm trí sáng suốt để tập trung giải quyết các vấn đề.
29. Mỗi hơi thở, mỗi bước đi của chúng ta có thể lấp đầy bởi bình an, hạnh phúc và sự thanh thản.
30. Tĩnh lặng là điều cốt lõi. Chúng ta cần tĩnh lặng như chúng ta cần không khí, như cái cây cần ánh sáng. Nếu tâm trí chúng ta lúc nào cũng đầy những từ ngữ và suy nghĩ, thì lấy đâu ra không gian cho chính chúng ta.
Thư Vĩ – Theo Báo mới