Recent Pages: 1 2 3 4 5 6
PHẬT TRÊN ĐƯỜNG PHỐ
Huỳnh Ngọc Chiến
NSGN – Tôi nghiệm được rằng những điều bình dị của cuộc đời luôn sâu thẳm. Vì nó giúp ta hiểu sâu sắc thêm những ý nghĩa thâm huyền trong kinh điển.
Tôi đọc được trên mạng một truyện kể lại của tác giả Huệ Khải. Truyện ngắn nhưng vô cùng thâm thúy, nội dung như sau:
Có thầy tu nọ rất mực thánh thiện. Sau nhiều năm dài tu hành tinh tấn, chuyên chú kinh kệ không một phút giây xao lãng, thầy thấy mình đã bước vào được cảnh giới tâm linh viên mãn.
Một đêm khuya nọ, sau khi xả thiền, thầy đi ngủ và nằm mơ thấy mình dự một buổi tiệc lớn gồm toàn những bậc đạo cao đức trọng. Tất cả mọi người đều sắp theo thứ tự ngôi thứ trên bàn tiệc. Thầy được vinh dự xếp ngồi gần chủ tiệc, nhưng ở vị trí thứ nhì. Vị trí thứ nhất dành cho người bán tạp hóa ở khu phố không xa nơi thầy cư trú.
Điều này khiến thầy băn khoăn không hiểu công phu đạo hạnh của người chủ tiệm đó cao đến mức nào. Sáng hôm sau, thầy liền tìm tới tiệm tạp hóa, tìm một chỗ khuất và kín đáo quan sát rất lâu. Thầy thấy tiệm không lớn lắm, nhưng không lúc nào ngớt khách. Chủ tiệm cũng chẳng có gì đặc biệt, luôn tay bán hàng, thu tiền, thối tiền, mà vẻ mặt lúc nào cũng tươi cười, nói năng hòa nhã.
Nhân một lúc ngớt khách, thầy bước tới chào chủ tiệm và kể lại giấc mơ kỳ lạ. Chủ tiệm ôn tồn nói:
– Tôi cần chiết dầu ăn từ cái thùng hai mươi lít ra hai mươi cái chai xếp sẵn ở góc kia. Xin thầy giúp một tay. Đừng để chai nào đầy quá hay vơi quá, cũng đừng làm sánh dầu ra ngoài chai nhớp nháp. Xong rồi, tôi sẽ tiếp tục câu chuyện của thầy.
Thầy chăm chú chiết dầu vừa xong, thì đúng lúc cửa hàng ngớt khách. Chủ tiệm lúc này cũng nghỉ tay bán hàng, liền bước tới hỏi thầy:
– Nãy giờ lo chiết dầu ra chai, trong đầu thầy có giây phút nào nhớ nghĩ tới Trời tới Phật không?
Thầy bẽn lẽn:
– Tôi làm không quen, ráng tập trung rót dầu vào từng chai theo đúng yêu cầu của ông, mệt toát mồ hôi. Do đó chẳng được phút giây nào rảnh trí mà nhớ nghĩ tới Phật, Trời!”.
Chủ tiệm cười hiền lành, bảo:
– Nếu thầy bận bịu buôn bán như tôi cả ngày, lu bu quanh năm suốt tháng, thì tâm thầy ắt xa Trời xa Phật mịt mù luôn! Tôi không có phước lớn để được rảnh rang chuyên lo tu hành như thầy. Tôi chỉ ráng tập thành thói quen cho tâm tôi lúc nào cũng nhớ Trời, nhớ Phật. Khi bán hàng cho khách tôi nguyện không để ai phải phiền lòng vì bị cân non, đong thiếu. Khi phục vụ khách hàng, tôi nguyện không để ai mích lòng vì thấy tôi thiên vị. Gặp khách hàng xấu tính, tôi nói cười nhã nhặn, thầm nhắc nhở: Thánh thần giả dạng thường dân tới thử thách mình đây. Tôi tu như vậy đó, thưa thầy!”.
Câu chuyện rất ngắn, nhưng ý nghĩa thật thâm thúy. Phật pháp không lìa thế gian pháp. Đâu cũng có thể là cảnh giới thị hiện của Bồ-tát, để tùy duyên hóa độ chúng sinh. Biết đâu trong số những người quanh ta, lại chẳng có chư Bồ-tát luôn giả dạng người phàm để thử thách hạnh nguyện của chúng ta?
Truyền thuyết Ấn Độ kể rằng khi đạo sư Narota lang thang khắp xứ sở Ấn Độ để cầu đạo vô thượng với đạo sư Tilopa, thì đạo sư Tilopa biến hiện thành vô vàn hình tướng với nhiều cảnh tượng nhằm thử thách môn đồ. Dù là một cao thủ huyễn thuật, nhưng Narota vẫn không sao lường được cảnh tượng biến ảo khôn lường do Tilopa bày ra. Vì biết rằng vị đạo sư kia có thể hóa thân thành mọi hình tướng, nên ông sẵn sàng quỳ phủ phục dưới chân của mọi khách qua đường để lễ bái. Đây là chi tiết cực kỳ sâu sắc trong câu chuyện nửa thực, nửa hư về hai vị đại chân sư Mật tông Ấn Độ. Cung kính hạ mình trước tất cả chúng sinh, vì biết rằng tất cả chúng sinh đều có thể là hóa thân của những bậc chân sư, là bước đầu để tiêu trừ bản ngã, cũng là cách thực hiện hạnh nguyện của Thường Bất Khinh Bồ-tát trong kinh Pháp hoa.
Kinh Pháp hoa ghi rằng có một vị Tỳ-kheo chẳng chuyên đọc tụng kinh điển, chỉ đi lễ lạy, thấy bất kỳ ai cũng cố lễ lạy, ngợi khen mà nói rằng: “Tôi chẳng dám khinh quý Ngài, quý Ngài đều sẽ thành Phật”. Khi nghe lời nói đó, nhiều người chửi mắng, dùng gậy, cây để ném, gạch đá để ném, nhưng ngài chẳng sanh lòng giận hờn, thường nói: “Ngài sẽ thành Phật”. Bởi ngài thường nói lời đó, nên hàng tăng thượng mạn Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di gọi ngài là Thường Bất Khinh.
Có lần, tôi ngồi uống cà phê trên vỉa hè. Có một bà cụ đến mời mua vé số. Dáng người thấp nhỏ, hiền lành. Tôi không bao giờ mua vé số, nên cầm bàn tay bà cụ, đặt vào đó một ít tiền, rồi bảo: “Con xin gởi bác ăn trầu”. Bà cụ lắc đầu không nhận. Tôi nài nỉ thế nào bà cũng không chịu lấy. Bà dúi tiền trả lại cho tôi, rồi cười hiền lành, bảo:
– Thôi cám ơn cậu. Tui không dám nhận đâu. Không có công mà tự nhiên ngồi hưởng, kiếp sau trả nợ cực lắm!
Rồi bà chào tôi mà đi bán tiếp. Câu nói của bà cụ như đóng đinh tôi xuống hè phố, khiến tôi sững sốt, không còn nghĩ đến chuyện chạy theo bà để nói lời xin lỗi.
Câu nói dù đơn giản, nhưng nó không chỉ là cách biểu hiện lòng tự trọng đáng kính của người nghèo, mà còn thâm thúy như pháp thoại của một vị chân sư: Không công mà ngồi hưởng, kiếp sau trả nợ! Ai dám nghĩ rằng câu nói đó là của một bà lão vô danh nghèo khổ, đi bán vé số dạo trên đường phố Sài Gòn? Một bài học vở lòng của đạo Phật về luật nhân quả. Bà lão kia có khác gì một Bồ-tát hóa thân giữa cõi thế để cảnh tỉnh người đời? Tôi tưởng chừng như nghe được một bài thuyết pháp. Thuyết pháp đâu cần phải nói nhiều, và nói cho hùng hồn. Chỉ cần một câu nói cũng khiến cho ta tỉnh ngộ. Giống như một chuyển ngữ của Thiền tông. Bà lão đã dạy cho ta tập theo hạnh nguyện của Bồ-tát Thường Bất Khinh.
Câu nói của bà lão suốt đời tôi không quên được. Như một bài minh để tự nhắc nhở mình. Không công mà ngồi hưởng, kiếp sau trả nợ! Giữa những đổ nát của đạo lý hôm nay, giữa những băng hoại của tình người, giữa cảnh xô bồ đua danh trục lợi bằng mọi thủ đoạn, khi sự vô cảm đang sa mạc hóa dần cuộc sống, thì hình ảnh bà cụ nhỏ bé nghèo khổ trên đường phố, với xấp vé số trên tay, chợt sáng rực lên, như một đóa sen tỏa sáng giữa đầm lầy u tối.
Còn có bao nhiêu bà lão bán vé số như thế trên những con phố Sài Gòn xô bồ tấp nập? Phải chăng vẫn còn vô số những Bồ-tát, những chân sư Tilopa đang thị hiện giữa cõi Ta-bà ô trọc bằng muôn ngàn hình tướng, để tùy duyên mà hóa độ chúng sinh?
Tôi nghiệm thêm được rằng những điều bình dị của cuộc đời luôn sâu thẳm. Vì nó giúp ta hiểu sâu sắc thêm những ý nghĩa thâm huyền trong kinh điển. Tôi đọc lại phẩm thứ hai mươi của kinh Pháp hoa, và cảm nhận thêm nhiều điều từ hạnh nguyện của Thường Bất Khinh Bồ-tát. Chư Phật, chư Bồ-tát đâu có ngồi mãi trên tòa sen để thuyết pháp trong bối cảnh hoành tráng của kinh điển Đại thừa, mà có thể các Ngài đang sống lẫn lộn giữa chúng ta dưới muôn ngàn hình tướng. Từ những nơi thâm u tịch mịch cho đến những phố xá huyên náo ồn ào. Nếu ta biết lắng nghe thì đường phố cũng có thể là đạo tràng, và những câu nói thoáng qua cũng có thể là pháp thoại. Tất cả đều từ một chữ Duyên.
Và tôi làm bài thơ này để ghi lại những gì mình cảm nhận:
Ứng hóa tùy duyên chuyển Pháp luân
Du hành quốc độ đẳng vi trần
Dục cùng hóa độ tam thiên giới
Nãi hiện Hằng sa vô lượng thân.
應 化 隨 緣 轉 法 輪
遊 行 國 土 等 微 塵
欲 窮 化 渡 三 千 界
乃 現 恒 沙 無 量 身
Huỳnh Ngọc Chiến
.
HỌ CÓ THỂ GIẾT ĐƯỢC BAO NHIÊU VỊ PHẬT?
Kaizer Haq
Hoang Phong chuyển ngữ
Đêm 29 rạng ngày 30 tháng 9 năm 2012 một ngôi chùa Phật giáo tại thị trấn Ramu của tỉnh Cox’s Bazar thuộc miền nam xứ Bangladesh đã bị thiêu rụi, thế nhưng nơi chính điện thì pho tượng Phật vẫn còn nguyên vẹn.
Cuốn phim Hollywood Sự vô tội của những người Hồi Giáo (Innocence of Muslims) mang hậu ý không tốt đã gây ra một bối cảnh nóng bỏng trên thế giới vào những tháng cuối năm 2012. Một vài dòng bình luận không được đẹp về kinh Koran đã được đưa lên mạng Facebook chen vào một trang riêng của một người Phật Giáo trẻ. Tuy rằng người này đã cực lực cải chính thế nhưng điều này cũng đã gây ra những cuộc bạo động vô cùng tai hại. Hai mươi lăm ngàn người Hồi Giáo trong một vùng miền nam Bangladesh gần biên giới Thái Lan đã phẫn nộ và xông vào cướp phá các ngôi làng Phật Giáo. Họ thiêu rụi 11 ngôi chùa, trong số này có hai ngôi chùa xưa hơn 300 năm. Đứng trước sự kiện này thì có lẽ những người Phật Giáo cũng khó tránh được một chút đau buồn nào đó. Thiết nghĩ đây cũng là một việc đáng để cho chúng ta suy tư như lời Đức Phật đã dạy: “Này các tỳ-kheo, nếu có những người không đồng chính kiến với chúng ta, xem thường Ta, hoặc xem thường giáo lý của Ta hay tu viện của Ta, thì cũng không nên lấy đó mà làm điều giận dữ” (Kinh Brahmājālasūtta).
Nhìn lại lịch sử thì chúng ta cũng thấy rằng vào thế kỷ XII đại học Na-lan-đà đã bị san bằng, kinh sách bị đốt sạch, tăng sĩ bị giết hại, và chỉ trong vòng một thế kỷ sau thì Phật Giáo cũng đã hoàn toàn biến mất trên đất Ấn. Thế nhưng ngày nay tín ngưỡng này vẫn trường tồn và còn được truyền bá ra khắp thế giới. Biến cố ở miền nam Bangladesh hay gần đây hơn là một vài xung đột xảy ra ở Miến Điện đều là những sự kiện tương đối nhỏ và không đáng kể. Dù sao thì những chuyện đáng tiếc xảy ra trong vùng Cox’s Bazar ở miền nam Bangladesh cũng đã khiến cho hơn 300 người bị cảnh sát bắt giữ. Chẳng phải là đau thương cho tất cả mọi người hay sao? Kaiser Hag, nhà văn, nhà báo, thi sĩ, học giả và giáo sư đại học người Bangladesh đã biến tất cả những đau thương đó thành một bài thơ thật xúc động: Họ có thể giết được bao nhiêu vị Phật?. Bài thơ này đã được đưa lên báo Daily Star, một tờ nhật báo lớn nhất và uy tín nhất của Bangladesh vào ngày 6 tháng 10 năm 2012. Bài thơ đã được Viện Nghiên Cứu Phật Học của Pháp cũng như một số báo chí quốc tế giới thiệu. Bản gốc tiếng Anh của tác giả Kaiser Haq và bản tiếng Pháp do vị giám đốc cơ quan văn hóa Pháp ở Dhaka (Bangladesh) là Olivier Litvine dịch sẽ được trình bày song song với bản chuyển ngữ tiếng Việt dưới đây để người đọc có thể so sánh, phân tích và tìm hiểu tuyệt tác này sâu xa hơn.
HỌ CÓ THỂ GIẾT ĐƯỢC BAO NHIÊU VỊ PHẬT?
When your mind is a medley When your vocal cords are taut and ready When your hand reaches When you are panting around the maze When you have given up all hope for the world Who can tell Social scientists might find it an interesting exercise There are over six billion of us Now tell me Those merchants of calculated hatred How many Buddhas can they destroy? |
Bản gốc tiếng Anh của Kaiser Haq (đưa lên báo ở Bangladesh vào ngày 6 tháng 10, năm 2012)
Bản dịch tiếng Pháp của Olivier LITVINE, giám đốc Trung Tâm Văn Hóa Pháp “Alliance française” tại Dhaka, thủ đô Bangladesh.
Cũng xin nhắc thêm là dân số trên địa cầu đã tăng lên bảy tỉ người kể từ cuối năm 2011. Bangladesh có diện tích đất đai là 143 998 km², dân số 160 triệu người, 85% theo Hồi Giáo, 12% theo Ấn Giáo, 3% theo Phật Giáo, và 1% theo Thiên Chúa Giáo.
Vài lời ghi chú thêm của người dịch
Nếu phân tích cẩn thận thì chúng ta cũng sẽ nhận thấy cấu trúc của bài thơ được dựa vào khái niệm Con Đường Của Tám Điều Đúng Đắn (Bát Chánh Đạo), tức là con đường giúp người tu tập đạt được giác ngộ và sự giải thoát cuối cùng. Tám điều đúng đắn gồm có:
1- hiểu biết đúng (chánh kiến / samyag drsti)
2- suy nghĩ đúng (chánh tư duy / samyak samkalpa)
3- ăn nói đúng (chánh ngữ / samyag vac)
4- hành động đúng (chánh nghiệp / samyak karmanta)
5- sinh sống đúng (chánh mệnh / samyag ajiva)
6- cố gắng đúng (chánh tinh tiến / samyag vyayama)
7- chú tâm đúng (chánh niệm / samyak smrti / có nghĩa là ý thức đúng được bản chất của chính mình và mọi sự vật)
8- tập trung tâm thức đúng (chánh định / samyak samadhi / có nghĩa là thiền định đúng)
Vậy chúng ta hãy thử phân tích bài thơ theo cấu trúc trên đây xem sao:
1- Hiểu biết đúng
Mỗi khi khư khư ôm lấy những gì mình có,
Hoặc thèm muốn dù chỉ là một chút gì chưa có,
Thì bạn có nghe chăng một lời nhỏ nhẹ:
Hãy buông bỏ đi,
Vì tất cả chỉ là vô thường!
Đấy là lời Phật dạy.
2- Suy nghĩ đúng
Mỗi khi bùng lên trong trí
Những ý tưởng thác loạn,
Thì bạn có nghe chăng một lời nhỏ nhẹ:
Này hãy quay trở về với chính mình!
Đấy là lời Phật dạy.
3- Ăn nói đúng và 4- Hành động đúng
Mỗi khi dây thanh âm căng lên trong cổ bạn để sẵn sàng
Tuôn ra một tràng những lời mắng nhiếc,
Và đôi tay nắm lại như muốn tung ra những cú đấm,
Thì bạn có nghe chăng một lời nhỏ nhẹ:
Này hãy bình tĩnh lại!
Đấy là lời Phật dạy.
5- Sinh sống đúng
Mỗi khi quơ tay và chạm phải
Bên dưới mặt bàn
Một bó giấy bạc,
Thì bạn có nghe chăng một lời cảnh giác?
Đấy là lời Phật dạy.
6- Cố gắng đúng
Mỗi khi thấy mình hụt hơi chạy trên con mê lộ
Của cuộc sống điên rồ này
Thì bạn có nghe chăng một giọng cười nhắn nhủ:
Làm gì phải phí sức như thế!
Đấy là lời Phật dạy.
7- Chú tâm đúng
Khi bạn đã mất hết niềm tin vào thế giới này,
Và cảm thấy dường như muốn nhấn tay
Lên chiếc nút bấm hạt nhân để hủy diệt tất cả,
Thì bạn có nghe chăng một lời khuyên thật dịu dàng:
Rằng chỉ có tình thương mới là phương thuốc chữa lành!
Đấy là lời Phật dạy.
Đố ai biết được có bao nhiêu vị Phật
Trong thế giới đông đúc này?
Để chúng ta có thể thường xuyên nghe những tiếng nói ấy thốt lên mỗi ngày?
8- Tập trung tâm thức đúng
Các nhà xã hội học có thể xem đây là một dịp
Để làm một cuộc khảo cứu khắp toàn cầu.
Thực sự họ cũng chẳng cần phải nhọc công như thế!
Vì tôi có thể trả lời ngay tức khắc:
Là có hơn sáu tỉ vị Phật.
Hơn sáu tỉ người chúng ta,
Mỗi người đều có một vị Phật,
Hiện hữu tại một nơi thật nhỏ bé nhưng vô cùng bao la
Trong con tim mình!
Vậy thì hãy nói cho tôi biết
Rằng họ sẽ làm gì được trước con số đông đảo ấy?
Những kẻ buôn hận thù đầy tính toán!
Những kẻ khuấy động đầy phi lý!
Hãy nói cho tôi biết
Rằng họ có thể giết được bao nhiêu vị Phật?
Bures-Sur-Yvette, 23.04.13
Hoang Phong chuyển ngữ
.
Người đọc có thể tìm hiểu thêm về bài thơ và biến cố trên đây qua một vài trang web như:
http://www.2oceansvibe.com/2012/10/01/muslim-rioters-torch-buddhist-temples-in-bangladesh-gallery/
http://www.2oceansvibe.com/2012/10/01/muslim-rioters-torch-buddhist-temples-in-bangladesh-gallery/
http://www.bouddhisme-universite.org/node/1410
http://laregledujeu.org/2013/01/11/11764/combien-de-bouddhas-peuvent-ils-detruire/
Source: http://www.2oceansvibe.com
Nguon: thuvienhoasen
TÌM HIỂU HÌNH ẢNH ĐỨC PHẬT
Fabrice Midal
(Hoang Phong chuyển ngữ)
Lời giới thiệu của người dịch:
Bài viết dưới đây là bản dịch chương 4 trong quyển Phật Giáo Đại Cương (ABC du Bouddhisme, nxb Grancher, 2008) của học giả Phật Giáo Fabrice Midal.
Đức Phật có thật hay không ?
Tất cả các tài liệu lịch sử đều chứng minh cho thấy là Đức Phật có thật và sống cách nay đã hai-mươi-sáu thế kỷ. Ngài là con của một vị vua thuộc dòng họ Thích-ca (Sakya) trị vì một vương quốc nhỏ dưới chân dãy Hy-mã-lạp sơn, trong một vùng thuộc lãnh thổ Nepal ngày nay. Tên tục của Ngài là Tất-đạt-đa (Siddharta), họ là Cồ-đàm – vì thế mà người ta thường gọi Đức Phật là Ngài Cồ-đàm.
Trong thời gian khi còn tu khổ hạnh người ta còn gọi Ngài bằng một tên khác là Thích-ca Mâu-ni, có nghĩa là “Vị Thánh Nhân của Yên Lặng thuộc dòng họ Thích-ca”.
Sau khi nhất quyết là sau này sẽ không đảm nhận chức vụ thủ lãnh nắm giữ quyền bính tạm thời (tức chính trị) trong vương quốc của vua cha thì Ngài từ bỏ cung điện xa hoa để chọn cuộc sống của một người tu tập tâm linh. Khi ba mươi tuổi thì Ngài đạt được giác ngộ và sau đó thì bắt đầu thuyết giảng. Ngài đã mang lại một niềm khích lệ lớn lao và sáng lập ra tập thể những người xuất gia. Ngài tịch diệt bên cạnh các đệ tử của mình khi được tám-mươi tuổi.
Những kinh nghiệm cảm nhận chủ yếu nàođã khiến cho Đức Phật trở thành một người sáng lập tôn giáo?
Những vấn đề khúc mắc khiến cho Đức Phật hằng ray rứt đều mang tính cách vô cùng sâu xa và khác thường. Có phải là Ngài đã hỏi tại sao chúng ta lại cứ dấn thân vào một cuộc sống luôn phải phấn đấu chỉ để mang lại sự hung bạo và để kéo dài bất tận sự hung bạo đó. Tại sao chúng ta lại phải gạt bỏ cái nhân tính tiềm tàng trong chính mình để chọn cho mình một cuộc sống dẫy đầy hận thù? Tại sao chẳng mấy khi chúng ta có dịp để chứng tỏ rằng mình là một con người? Tại sao chúng ta lại không thể thực hiện được những gì mình hằng mong ước mà lại cứ đắm mình vào những thứ không nên làm?
Đấy là những gì mà Đức Phật đã ưu tư. Con người luôn bị lọt ra bên lề cuộc sống. Họ tranh đấu nhằm mang lại cho mình thành công và hạnh phúc, thế nhưng càng vùng vẫy bao nhiêu thì những mục tiêu ấy lại càng trở nên xa vời bấy nhiêu.
Tuy sống trong huy hoàng thế nhưng Đức Phật cũng biết là có nhiều người khác đã từng chối bỏ sự hào nhoáng ấy để quay lưng đi và quên nó (các người tu khổ hạnh vào thời bấy giờ). Ngài tự hỏi tại sao lại có thể như thế được.
Trái với những gì người ta thường hiểu một cách sai lạc, thật sự là ta không thể tìm thấy được lời giáo huấn nào mang nhiều tính cách tự tin và lạc quan hơn những lời giảng dạy của Đức Phật.
Đức Phật luôn căn cứ vào hiện thực và nhận thấy chỉ có một con đường duy nhất có thể mở ra một lối thoát cho con người. Đấy là cách không nên cố gắng tìm mọi cách để lẩn trốn khổ đau, bất toại nguyện và lo buồn mà phải nỗ lực quan tâm tìm hiểu chúng. Thật vậy có rất nhiều phương tiện giúp chúng ta nhìn vào cách mà chúng ta đang sống.
Cái lâu đài đầy tiện nghi mà vua cha đã dựng lên để cố kềm giữ Ngài thật ra chỉ là một nhà tù với các bức tường được dựng lên bằng sự sợ hãi. Tương tự như vậy, chúng ta cũng đang bị giam giữ trong cái ngục tù của sự kinh hoàng trước bệnh tật, già nua và chết chóc, và đấy chính là những gì khiếp đảm nhất của hiện thực.
Suốt gần năm-mươi năm từ khi đạt được giác ngộ cho đến lúc tịch diệt, Đức Phật không một lúc nào lại không nhắc nhở cho chúng ta biết là chúng ta đang tự lừa dối mình. Chúng ta không nên trốn lánh sự sợ hãi và khổ đau mà phải lắng nghe chúng hầu tìm hiểu chúng, và đấy là cách duy nhất để giúp chúng ta có thể loại bỏ được chúng.
Hãy nhìn thẳng vào sự hiện hữu của chính mình để phấn đấu. Chưa hẳn là mình sẽ thắng, thế nhưng cũng chưa phải là mình sẽ thua. Đã là con người thì chúng ta lúc nào cũng có đủ khả năng giúp mình tự giải thoát khỏi mọi thứ gông cùm xiềng xích – chẳng hạn như việc thay đổi thể dạng tâm thần của mình.
Phương pháp luyện tập thiền định sẽ giúp chúng ta thực hiện được điều ấy.
Đấy cũng chính là con đường mà Đức Phật đã mở ra cho chúng ta.
Đức Phật là một vị trời hay một con người?
Đức Phật không giống như các vị sáng lập ra các tôn giáo khác bằng cách chỉ dựa vào Kinh Sách – chẳng hạn như Abraham, Moïse, Chúa Ki-tô hay Mahammed. Đức Phật không phải là một nhà tiên tri (prophète / prophet, tiếng Hy Lạp là prophêtês, có nghĩa là một vị tự cho mình mang tính cách linh thiêng, tiên đoán được những biến cố sẽ xảy và dựa vào đó để mà thuyết giảng bằng lời hay bằng chữ viết. Các biến cố mà các vị ấy tiên đoán thường là các tai ương sẽ xảy ra trong tương lai – tức có nghĩa là một sự hăm dọa). Đức Phật trái lại chỉ là một con người bình dị đã nêu lên những kinh nghiệm cảm nhận mà mỗi con người đều có thể thực hiện được. Ngài không hề nắm giữ bất cứ gì mang tính cách thần khải. Không có ai trao truyền cho Ngài một thông điệp mang tính cách linh thiêng, siêu nhiên hay thuộc vào một thế giới khác hơn là cái thế giới này.
Thiên Chúa Giáo đòi hỏi các tín đồ phải tin vào Chúa Ki-tô tức là vị Con Trời đã chết trên cây thánh giá và sau đó thì sống lại. Trọng tâm của tôn giáo ấy dựa vào một đức tin vượt lên trên mọi khả năng lý luận.
Trái lại đối với sự thật nêu lên trong giáo huấn của Đức Phật thì đơn giản là chỉ dựa vào một thể dạng tự do và sinh động của thực tại – dù cho thể dạng ấy mang tính cách tiềm ẩn, tức là còn bị che khuất và u mê. Con đường chỉ là một cách đơn giản giúp chúng ta nhận thấy đích thật cái thể dạng ấy và giúp nó hiển lộ ra trong lòng mình. Đức Phật không hề quan tâm đến Đấng Tối Cao hay các vị trời khác. Dầu sao đi nữa theo Đức Phật thì các vị ấy không thể giúp mình tự giải thoát cho mình được. Con đường duy nhất là phải ngồi xuống để nhìn vào những kinh nghiệm cảm nhận của chính mình trong từng giây phút một, với tất cả sự chân thật và ngay thẳng. Quả thật là chẳng ai có thể làm được việc ấy thay cho mình cả.
Vào thời khắc trọng đại nhất khi Đức Phật sắp đạt được sự Giải Thoát, nghĩa là lúc Ngài sắp bước sang phía bên kia (để đạt được sự Giác Ngộ) thì cũng chính là lúc mà Ngài bị ma quỷ tấn công mãnh liệt nhất. Chúng tìm đủ mọi cách làm cho Ngài phải bị hủ hóa, chúng quyến rũ để đánh lạc hướng Ngài, thế nhưng đồng thời đấy cũng chính là lúc mà Ngài đã biểu lộ một hành động thật phi thường, một hành động độc nhất trong lịch sử nhân loại, mang một chiều sâu vô hạn: Ngài đã dùng bàn tay của mình để chạm vào mặt đất và mượn mặt đất làm nhân chứng cho Ngài.
Thay vì trỏ tay lên trời để bảo cho mọi người biết rằng sứ mạng của mình là do Trời giao phó thì Đức Phật lại hướng tay mình xuống mặt đất của thế gian này. Rất nhiều ảnh tượng biểu trưng cho cái dấu ấn thật tinh tế ấy của Đức Phật khi Ngài dùng bàn tay mình để chạm vào mặt đất. Thật vậy không thể có một biểu tượng nào mang nhiều ý nghĩa hơn thế để chứng minh cho thấy rằng trước hết Ngài chỉ là một con người bình dị, bình dị như mỗi con người trong tất cả chúng ta. Một con người bước đi trên mặt đất này và chỉ quan tâm đến những gì thật đơn sơ của hiện thực mà không hề chờ đợi những ước mơ và hy vọng xa vời.
Thế nhưng lại chính là nhờ vào sự khám phá ra cái thể dạng vượt thoát khỏi mọi bám víu và hận thù luôn lôi kéo tất cả chúng ta phạm vào lầm lẫn, mà Đức Phật đã trở thành một sinh linh thiêng liêng. Cuộc đời và những lời giáo huấn của Ngài là những gì vô cùng kỳ diệu tượng trưng cho một bầu không gian mở rộng, vượt lên tất cả các quan niệm của đời thường. Đối với nhiều học phái thì Đức Phật không phải là một con người được sinh ra, sống và chết đi, mà thực sự chính là một thể dạng sinh linh luôn hiện hữu trong thực tại và đồng thời cũng là sự thật của chính cái thực tại ấy.
Khi nhìn một pho tượng Phật chúng ta cũng có thể nhận thấy được sự biến đổi của một con người, đấy là một tấm gương nêu lên lòng quả cảm và quyết tâm đã khiến cho một con tim ngập tràn bởi sự an bình và niềm yêu thương, là một bầu không gian mở rộng của tình thương yêu tinh khiết và của cả thực tại nữa – và đấy cũng là những gì hiện hữu trong từng giây phút một.
Như vậy nếu hiểu được ý nghĩa đó thì chúng ta cũng nên tránh các thói quen suy nghĩ nhị nguyên của mình từ trước để nhìn vào Đức Phật như là một con người hoàn hảo và hoàn toàn thiêng liêng.
Các ảnh tượng biểu thị Đức Phật
có trung thực với hình ảnh của chính Ngài hay không?
Người nghệ sĩ không phải là một phóng viên báo chí mà họ chỉ là người diễn đạt. Họ chỉ tìm cách thể hiện các phẩm tính nơi sự hiện hữu của Đức Phật mà không chú ý đến các đặc tính trên thân thể Ngài. Nhằm đạt mục đích đó các nghệ nhân trước hết đã dựa vào một số biểu tượng dễ nhận biết nhất để biểu thị cho Đức Phật: thí dụ như một chiếc ngai, vết chân của Ngài, chiếc bánh xe tượng trưng cho giáo huấn của Ngài, một đóa hoa sen…
Về sau này, chính xác hơn là vào thế kỷ thứ I, thì mới thấy nảy sinh ra ý kiến biểu thị Đức Phật qua nhân dạng con người. Điều này sở dĩ xảy ra có lẽ là do người Hy Lạp đã nhìn vào Đức Phật xuyên qua hình ảnh vị thần Apollo của họ (có thể xem thêm bài viết “Nghệ thuật biểu thị nhân dạng Đức Phật” trên trang nhà Thư Viện Hoa Sen, Quảng Đức,…).
Ngày nay chúng ta có thể biết thêm rằng Đức Phật vào thời bấy giờ rất có thể là một người gầy còm và da dẻ màu sậm đen chứ không như một số ảnh tượng mà chúng ta vẫn thường thấy ngày nay. Nhờ vào việc nghiên cứu Kinh sách Chính Thống bằng tiếng Pa-li và nhất là dựa vào các công trình khảo cứu của các sử gia hiện đại thì người ta mới hiểu rằng Đức Phật không phải là một vị hoàng thân tầm cỡ lớn, cũng không sống trong một lâu đài nguy nga, mà đúng hơn thì Ngài chỉ là con của một vị vương công khiêm tốn trong vùng. Thế nhưng điều ấy nào có gì là quan trọng.
Hình tượng chỉ giữ vai trò gợi lại những lời giáo huấn mà Ngài đã để lại cho chúng ta, nhưng tuyệt nhiên không phản ảnh một sự thật nào về xác thân con người của Ngài. Hơn nữa tại mỗi vùng địa lý, người ta lại hiểu giáo huấn của Ngài một cách khác đi đôi chút, con người ở những nơi ấy đã thích ứng Phật Giáo với lịch sử của họ và cả những gì mà họ ước mơ, để rồi hình dung ra hình ảnh của Ngài một cách khác đi (xin chú ý đây cũng là ý nghĩ mà tác giả sẽ khai triển khi trình bày về nguồn gốc của Đức Phật Di Lặc trong phần kết). Thế nhưng phải hiểu rằng tất cả những hình ảnh ấy đều nói lên một sự thật duy nhất, dù không mang tính cách lịch sử đi nữa thì sự thật tâm linh ấy cũng hàm chứa một giá trị thật cao
Dù có cố gắng tìm lại hình ảnh Đức Phật lịch sử với bất cứ giá nào thì đấy cũng chỉ là một cách bám víu phát sinh từ bản chất vô minh của mình, và cũng cho thấy là mình chẳng hiểu gì cả về những lời giáo huấn của Ngài. Bản thân của Đức Phật chẳng có gì hệ trọng cả. Đấy chỉ là một biểu tượng sống thực của sự Giác Ngộ. Điều mà chúng ta cần tìm kiếm chính là sự giác ngộ chứ không phải là các chi tiết liên quan đến tiểu sử của Ngài hay là dáng vóc của Ngài.
Hãy nhìn lên hình tượng của Đức Phật. Cái hình tượng đó gợi lên trong trí ta điều gì?
Một thể dạng an bình và một lòng nhân ái mở rộng hướng thẳng vào con tim của mình. Đấy mới thật là những gì chính yếu.
Chúng ta học được những gì từ các ảnh tượng của Đức Phật?
Trước hết các ảnh tượng ấy cho biết Ngài là ai. Vào thời đại của chúng ta ngày nay, vai trò ảnh tượng không còn giữ được tính cách thiêng liêng như trước nữa. Đối với chúng ta, khá lắm thì đấy cũng chỉ là những tác phẩm gợi lên một sự say mê nào đó dưới khía cạnh thẩm mỹ. Thế nhưng đối với người Phật tử thì ảnh tượng của Đức Phật là những gì giúp họ tiếp cận trực tiếp với sự hiện diện của Ngài trong thực tại. Các ảnh tượng ấy không phải là các tác phẩm của một nghệ sĩ nhằm mô tả những cảm hứng của mình. Người sáng tạo ra các ảnh tượng ấy luôn tìm cách xóa bỏ chính mình để nhường chỗ cho những gì họ muốn diễn tả có thể bộc lộ ra với sự rạng rỡ nguyên sinh của nó. Nếu nhìn theo chiều hướng ấy thì bất cứ một tác phẩm Phật Giáo nào cũng đều mang tính cách thiêng liêng, đều nhằm phản ảnh cái đẹp tinh khiết nhất của nó. Cái đẹp đó không có mục đích mang đến cho chúng ta một cảm xúc thích thú nào cả mà đúng hơn là giúp mở rộng con tim của chúng ta một cách thật kiên cường và quảng đại.
Quả thật hết sức khó để có thể đọc những gì được ghi trong các trang kinh sách viết bằng tiếng Phạn hay tiếng Pa-li hầu thấu triệt được các lời giảng dạy của Đức Phật. Hàng rào ngăn cách về ngôn ngữ là một trở ngại lớn. Việc dịch thuật không mấy khi mang lại các kết quả mong muốn và hơn nữa cuộc sống tân tiến ngày nay đã khiến cho một số các lời giảng huấn mà người ta cho là của Đức Phật có thể trở nên khó hiểu. Thế nhưng đơn giản hơn cả là chỉ cần nhìn vào ảnh tượng của Đức Phật thì chúng ta cũng có thể cảm nhận được sự hiện diện của Ngài. Con đường này thật vô cùng giản dị.
Đôi khi ảnh tượng cũng đủ để giúp chúng ta nhận thấy quyết tâm phi thường của Ngài trong khi thiền định: toàn thân Ngài rắn lại vì cố gắng. Còn có một tấm gương nào quý giá hơn để chúng ta nhìn vào hay không?
Đôi khi ảnh tượng cũng cho thấy Ngài dường như vượt thoát khỏi mọi thứ căng thẳng và hiện ra như một thực tại thật tinh khiết và tự nhiên không cần phải biểu lộ, bởi vì cái thực tại tinh khiết ấy đã vượt lên trên tất cả mọi tiêu chuẩn nhỏ hẹp.
Tại sao các ảnh tượng của Đức Phật lại thường giống nhau?
Bởi vì việc biểu thị Đức Phật chỉ có tính cách tượng trưng nhằm nói lên các phẩm tính của sự Giác Ngộ nơi Ngài. Ảnh tượng thường cho thấy trên đỉnh đầu của Ngài có một cái bướu (tượng trưng cho trí tuệ) và giữa hai lông mày thì có một túm lông nhỏ (tượng trưng cho sự quán thấy sâu xa). Hai trái tai thì thòng xuống, đấy là vì phải đeo các bông tai thật nặng khi Ngài còn là một vị hoàng thân. Tóc cắt ngắn tượng trưng cho cuộc sống xa lìa thế tục, bởi vì vào thời bấy giờ tóc để dài là cách biểu trưng cho quyền lực và uy thế. Động tác của hai tay thì luôn mang một ý nghĩa nào đó, chẳng hạn như để nói lên rằng: ” Đừng lo sợ”, “Hãy cố lắng nghe những lời giảng huấn” hoặc “Mặt đất này là nhân chứng duy nhất của Ta”.
Khi nói rằng Đức Phật là bản thể đích thật của ta thì đấy có ý nghĩa gì?
Đức Phật khuyên chúng ta nên thức tỉnh hầu giúp chúng ta có thể quán nhận được những gì cao quý trong sự hiện hữu của chính mình, bởi vì nếu thiếu sự tỉnh thức thì chúng ta nào có thể khám phá ra được thể dạng cao quý của chính mình. Nếu nhìn vào khía cạnh đó thì quả thật là không có gì sai lầm hơn khi biến Đức Phật thành một thần tượng điện ảnh Hollywood để nhìn vào đấy mà bắt chước theo. Điều đó không thể chấp nhận được. Đức Phật không thuộc vào bất cứ một nơi nào cả bởi vì Ngài đang trú ngụ trong tâm thức của chính ta. Không nên tôn thờ Ngài từ bên ngoài mà phải nhận thấy được Ngài đang hiện hữu trong lòng mình.
Biết suy tư để nhận ra được điều ấy không phải là chuyện dễ chỉ vì chúng ta vẫn có thói quen luôn đi tìm những gì mong muốn ở những nơi không thể nào có được những thứ ấy, tức là những nơi mà chúng ta luôn phạm vào mọi sự sai lầm. Thế giới Tây Phương thường xem con người là kẻ phạm tội, luôn bị chi phối bởi tội lỗi. Dó đó phải tuân thủ một số quy luật và nghi lễ nào đó để chủ động lấy mình, để mình không lăn xuống vực sâu.
Đối với hầu hết các tín ngưỡng thì vấn đề mấu chốt là: làm thế nào để khống chế được mình, không để cho con thú ẩn nấp bên trong mình đè bẹp được mình ?
Phật Giáo không chia sẻ quan điểm ấy. Phật giáo chỉ nhìn vào những nơi nào có thể phát huy được lòng tốt mà thôi. Phật Giáo không ngả theo và cũng không chống lại Rousseau (1712-1778, là nhà văn, triết gia và soạn nhạc gia người Pháp, chủ trương một khái niệm mang tính cách vừa triết học vừa chính trị liên quan đến bản chất tự nhiên của con người trước khi xã hội được hình thành, và cái bản chất đó là những gì mang lại hạnh phúc cho con người – ghi chú thêm của người dịch). Thế nhưng ông ta lại không hề khẳng định là con người chỉ có thể hoàn hảo dưới thể dạng rừng rú (tức thuộc vào thời bán khai khi chưa bị xã hội hủ hóa). Ông ta xem đấy là một thứ gì mang bản chất tốt (đại khái như khái niệm “nhân chi sơ tính bản thiện” của Khổng Tử) hướng vào các kinh nghiệm của sự cảm nhận, và ông dựa vào đấy mà phân tích một cách thật khắt khe để tìm hiểu tại sao chúng ta lại chối bỏ và làm cho ô uế cái bản chất tốt ấy đi.
Kinh Hoa Sen có thuật lại một câu chuyện về một người nghèo khó tìm gặp một người bạn thuở thiếu thời. Người bạn này thì lại thật giàu có và khi trông thấy cảnh khốn cùng của bạn mình bèn kín đáo nhét vào áo của người này một viên ngọc thật quý mà không nói gì cả, chẳng qua cũng vì không muốn cho bạn mình biết để khỏi ái ngại. Nhiều năm sau thì bất ngờ người này lại gặp lại bạn cũ và thấy bạn mình vẫn cứ nghèo đói như xưa. Quá đỗi ngạc nhiên, người này liền sờ vào vạt áo của bạn mình và nhận ra là viên ngọc vẫn còn đấy. Qua không biết bao nhiêu năm tháng dài mà người ấy vẫn không tìm được viên ngọc quý trong áo mình. Quả là chúng ta cũng chẳng khác gì với người ăn xin ấy vì mang trong người một viên bảo châu mà nào có hề hay biết.
Con đường của Đức Phật cũng không có mục đích nào khác hơn là giúp chúng ta tìm thấy cái kho tàng quý giá đó của chính mình.
Cái kho tàng ấy không phải là một món quà tặng của Đấng Tối Cao mà thật ra là sở hữu riêng của tất cả mỗi con người. Vậy làm thế nào để biết được cái gia tài đó?
Hãy lấy một thí dụ.
Khi ta đang tản bộ giữa một khung cảnh thiên nhiên và bỗng cảm thấy vô cùng xúc động, đến độ chỉ muốn hòa mình vào cảnh thiên nhiên đang tỏa rộng ấy để nhập thành một thực thể với nó, và sẽ không còn một ngăn cách nào giữa ta và thế giới chung quanh. Cái kinh nghiệm cảm nhận ấy cũng có thể xảy ra khi gặp được một con người nào đó, và từ cuộc gặp gỡ ấy bộc phát ra một thứ cảm tính tự nhiên của tình thương yêu. Đấy là giây phút tượng trưng cho một sự mở rộng, và con người ấy biết đâu cũng có thể là Đức Phật. Con đường sẽ tập cho chúng ta biết trú ngụ trong chính nét mặt của Ngài.
Khi nào kinh nghiệm cảm nhận về một sự mở rộng như trên đây giúp cho ta hòa nhập với nó thì nó sẽ đánh thức trong ta một sự hiểu biết thật căn bản để luôn ước vọng được đặt niềm tin của mình vào nó. Phật giáo không phải là một sự mong cầu tìm được một cái gì mà mình không có, mà đúng hơn chỉ là con đường giúp mình trở về với chính mình.
Đức Phật có phải là người lập ra một tôn giáo,một học phái triết lý hay một ngành tâm lý học hay không?
Phật giáo cũng có việc cúng kiến, cũng có chùa chiền, tất cả các thứ này có thể là nguyên nhân khiến người ta có cảm tưởng là Phật Giáo cũng không khác gì với các tôn giáo theo kiểu Do Thái Giáo, Thiên Chúa Giáo hay Hồi Giáo. Thế nhưng thật ra thì lại khác hẳn. Lý do chính yếu nhất là Phật Giáo không tin vào một vị Trời sáng tạo, và điều đó cũng cho thấy Phật Giáo là một tôn giáo duy nhất không tin tưởng có Thượng Đế (non-theism).
Phép thiền định mà Phật Giáo đưa ra không nhằm vào mục đích hòa nhập với một thể dạng linh thiêng, hoặc một sự tuyệt đối, hoặc bất cứ một thể dạng đơn thuần tri thức nào cả, mà đúng hơn là để phát huy một sự chú tâm chính xác và bền vững hướng vào tất cả những gì đang hiện hữu.
Phật Giáo cũng không phải là một tín ngưỡng dựa vào giáo điều. Người tu tập theo Phật Giáo không cần phải phát lộ đức tin của mình đối với bất cứ một thứ gì để dựa vào đó mà trở thành một người Phật tử. Trái lại là đằng khác, các vị thầy Phật Giáo thường nhắc nhở người tu tập phải luôn cảnh giác và thắc mắc để tự tìm hiểu thêm. Đức Phật đã từng nói rằng: “Không được tin bất cứ gì Ta nói là đúng, chỉ vì đấy là do Ta nói. Trái lại phải mang ra thử nghiệm những lời giáo huấn của Ta giống như một người thợ kim hoàn thử vàng. Nếu sau khi quán xét các lời dạy của Ta mà nghiệm thấy là đúng, thì lúc ấy mới nên mang ra thực hành. Dầu sao thì nhất định cũng không phải là vì kính trọng ta mà mang ra thực hành”.
Có một điều cần phải khẳng định một cách dứt khoát là Đức Phật không thể nào cứu độ chúng ta được. Thật vậy Đức Phật không thể làm gì được cho chúng ta cả. Ngài chỉ có thể trỏ cho chúng ta thấy một con đường, và mỗi người trong chúng ta phải tự mình bước theo con đường đó.
Mỗi người phải nhận lãnh trách nhiệm về sự hiện hữu của chính mình.
Phật Giáo cũng không phải là một triết học, bởi vì Phật Giáo luôn tránh không trả lời các loại câu hỏi đơn thuần chỉ mang tính cách tự biện hay siêu hình.
Kinh sách kể chuyện về một người cứ khăng khăng nhất quyết đòi hỏi Đức Phật phải giải đáp cho bằng được, thế rồi Ngài đành phải thuật lại cho người ấy nghe một câu chuyện như sau: “Nếu có ai bắn một mũi tên làm cho mình bị thương và mình biết rõ đấy là một mũi tên có tẩm một thứ thuốc độc thật mạnh. Vậy có nên tìm hiểu xem người bắn mũi tên mang tên gì, giai cấp xã hội của hắn là gì, hắn từ làng nào đến đây, cái cung và mũi tên của hắn làm bằng vật liệu gì? Tất nhiên là không nên thắc mắc về những điều ấy. Trái lại thì phải phản ứng nhanh chừng nào tốt chừng ấy để rút mũi tên ra khỏi vết thương và tìm ngay thuốc hóa giải chất độc để mà băng bó”. Chính vì lý do đó mà Đức Phật thường được xem như một vị lương y hơn là một hiền giả hay một triết gia.
Ngay cả các tư tưởng của Long Thụ thường được xem là các tư tưởng thuộc loại tinh tế nhất trong Phật Giáo cũng không thuộc vào lãnh vực triết học. Lý do thật hết sức đơn giản là vì triết học chỉ là một cách thắc mắc của người Hy Lạp mà thôi (cũng xin mạn phép nhắc thêm là tác giả tốt nghiếp tiến sĩ triết học tại đại học Sorbonne Paris).
Nếu không chú ý đến khía cạnh trên đây thì sẽ khó tránh khỏi những điều nghịch lý hết sức trầm trọng. Trong lãnh vực triết học người ta thường tìm cách chuyển những gì không biết trở thành biết (hiểu biết bằng sự lý luận và tự biện triết học) và đấy cũng là cách phủ nhận những gì mang tính cách cá biệt của Phật Giáo (tức phủ nhận Phật Giáo vượt lên trên triết học). Phật Giáo không giống với bất cứ một cơ cấu triết học nào của Tây Phương – dù đấy là chủ nghĩa hoài nghi, chủ nghĩa yếm thế, chủ nghĩa hưởng lạc…. Cũng không thể nào đưa Phật Giáo đến gần với các tư tưởng của Descartes, Spinoza, Kant hay Nietzche (ba triết gia đầu tiên chủ trương có Trời, vị thứ tư thì cho là “Trời đã chết”). Phạm vi và cách nhìn của Phật giáo ở vào một nơi khác. Do đó thật hết sức quan trọng phải luôn bảo vệ sự độc đáo của Phật Giáo.
Phật Giáo cũng có những bài hát, những lời xiển dương, nghi thức cúng bái, lễ lạc – và nhất là thiền định. Do đó Phật Giáo không phải là một hình thức suy tư tự biện về hiện thực mà đúng hơn là một con đường đích thật liên quan đến từng hành động, ngôn từ và tư duy của chúng ta.
Phật Giáo mang đến cho tất cả mọi con người thuộc mọi giới tính một con đường giúp cho họ sống một cách toàn vẹn sự hiện hữu của chính họ. Con đường ấy không dẫn dắt chúng ta bước vào một xứ sở nào khác mà chỉ đơn giản là đưa chúng ta đến gần hơn với chính con người của mình, nơi đó đang vang lừng tiếng hát của cả một không gian rộng lớn.
Phật Giáo là một “con đuờng không chủ đích” hay là một “lối đi không lối đi” – đấy là cách nói nhằm nhấn mạnh sự kiện là hành động bước theo con đường sẽ quan trọng hơn nhiều so với kết quả mong cầu sẽ đạt được do con đường đó mang lại.
Phật Giáo có phải là vô thần hay không?
Phât Giáo không tôn thờ một vị Trời Sáng Tạo, thế nhưng đấy không có nghĩa Phật Giáo là vô thần. Thật thế Phật Giáo luôn cảnh giác chúng ta trước mọi hành vi mang tính cách tín ngưỡng và khuyên chúng ta phải luôn quán xét và thận trọng đối với khá nhiều điểm tương đồng trong cuộc phấn đấu của chủ nghĩa vô thần nhằm giải thoát cho mình ra khỏi các gông cùm tạo ra từ các thứ giáo điều.
Tuy nhiên mặt khác thì Phật Giáo cũng lại rất gần với các tôn giáo của chúng ta (tức của người Tây Phương), chẳng hạn như khi một vị tu sĩ Phật giáo gặp một vị tu sĩ Thiên Chúa Giáo thì cả hai đều cảm thấy là mình cùng chia sẻ một thứ gì thật chủ yếu.
Dầu sao thì Phật Giáo cũng mang tính cách vô-thần thật sâu xa. Phật Giáo chủ trương một sự phân tích không nhân nhượng nhằm vạch ra cho thấy cái bẫy đang được giăng ra trong các tín ngưỡng hữu thần: đấy là cách mà ta phải khẳng định là có một vị trời khác với mình, và tiếp theo đó thì vị trời lại dựa vào sự hiện hữu của ông ấy để mà xác nhận là có sự hiện hữu của ta và còn thiết đặt cả cho ta các kinh nghiệm cảm nhận của chính ta (có nghĩa là vị ấy có thể ban cho ta hạnh phúc hoặc trừng phạt ta).
Mỗi khi con người nói đến một vị trời nào đó thì đấy cũng chỉ là cách khoác thêm cho vị ấy hình ảnh của chính mình, sau khi đã phóng đại nó và ghép thêm cho nó các phẩm tính thật hoàn hảo. Trời chỉ là một hình ảnh khuếch đại thật khổng lồ của chính chúng ta.
Khi nào vị trí của Vị ấy và của mình được phân định hai bên rõ rệt thì tất nhiên cũng sẽ xảy ra việc cầu khẩn Vị ấy, trông chờ vào sự nâng đỡ cũng như sự giải cứu của Vị ấy. Dầu sao thì đôi khi chúng ta cũng có thể cảm nhận được một mối tương liên nào đó (giữa Trời và chúng ta) được thắt chặt, thế nhưng nhiều lúc thì chúng ta cũng có có cảm giác là mối dây đó bị đứt (thiếu đức tin). Quả thật hết sức khó để có thể tạo ra một mối liên hệ với Trời khi ta vẫn còn hình dung ra được hình ảnh của Vị ấy (khi vẫn còn hình dung ra hình ảnh của Vị ấy khác với mình thì làm thế nào mà mình có thể hội nhập với Vị ấy được).
Thật vậy có một số nhà thần bí chủ trương là Trời không ở bên ngoài con người. Trong số này có thể kể ra vị Thầy Eckhart hay thánh nữ Thérèse de Lisieux, đấy là những người mà Phật Giáo cảm thấy khá gần gũi.
Tại sao Phật Giáo vô thần mà lại có một số thánh thần địa phương đông đảo đến thế?
Nếu căn cứ vào các khái niệm của Tây Phương từng chịu ảnh hưởng nặng nề bởi Thiên Chúa Giáo và các cuộc chiến hung hãn và dai dẳng của tôn giáo này chủ xướng để chống lại “dị giáo” (tôn giáo đa thần của người La Mã trước khi Thiên Chúa Giáo thâm nhập vào Âu Châu) thì sẽ không thể nào hiểu được sự nghịch lý trong câu hỏi trên đây. Đối với Thiên Chúa Giáo thì việc thờ cúng thần thánh địa phương và thế tục là một thứ nọc độc, một thứ dị đoan cần phải nhổ bỏ tận gốc khỏi đầu óc của quảng đại dân gian.
Phật Giáo không bao giờ chủ trương cách ứng xử ấy mà luôn tin vào sự hiện hữu của thật nhiều các vị thần thánh. Phật Giáo chỉ tìm cách chuyển họ trở thành những sinh linh phục vụ cho Đạo Pháp. Các vị thần núi hay các vị thần ao hồ đều có thể có thật, với điều kiện là phải tôn kính họ và không được tách họ ra khỏi nơi trú ngụ của họ. Ta chỉ cần xin phép họ được lưu trú trong lãnh địa của họ và nhờ họ giúp đỡ, thế nhưng tuyệt nhiên đấy không phải là cách giúp mình có thể dập tắt được ngọn lửa của khổ đau (chỉ có Phật Giáo đích thật mới giúp chúng ta thực hiện được việc ấy).
Đấy cũng là một cách biểu lộ sự bao dung của Phật Giáo đối với các tín ngưỡng khác. Tại Trung Quốc Phật Giáo cùng phát triển chung với Khổng Giáo, Lão Giáo và các tín ngưỡng dân gian khác. Tại Nhật Bản thì Phật Giáo và Thần Đạo cùng tồn tại bên nhau và cùng hướng vào việc tôn thờ thiên nhiên và các vị thần linh trú ngụ trong các bối cảnh thiên nhiên ấy.
Ngoài ra Phật Giáo còn ghép thêm vào số các vị thần linh của thiên nhiên vô số các vị Phật khác với mục đích biểu trưng cho muôn ngàn thể dạng phát hiện của sự giác ngộ. Chữ Phật không nhất thiết là một danh từ riêng mà đúng hơn là một “tước vị” mang ý nghĩa một “Vị Giác Ngộ”. Ngay cả vào các thời kỳ nguyên thủy, tín ngưỡng Phật Giáo cũng đã bắt đầu chủ trương sự hiện hữu của nhiều Vị Phật khác từng sống trên địa cầu này vào những thời đại thật xa xưa, hoặc sẽ xuất hiện ra sau này.
Tại sao lại có nhiều Phật đến thế?
Nếu muốn giải đáp thắc mắc này thì trước hết phải tự hỏi: “Vậy Đức Phật là ai?”.
Đấy có phải là một con người đã từng sống trong một thời đại lịch sử nhất định hay chỉ là những thể dạng hiện hữu dưới muôn ngàn gương mặt khác nhau?
Tương tự như đại dương mang các tính chất khác nhau như ướt, mênh mông và mặn, tâm thức của Đức Phật cũng thế và cũng có thể phát lộ dưới nhiều hình thức khác nhau, như lòng từ bi, trí tuệ và nhiều thể dạng sinh hoạt khác nhau…
Theo quan điểm của Phật Giáo, nếu xem chư Phật hàm chứa một sự hiện hữu riêng biệt mang tính cách cá thể thì nhất định đấy là một điều sai lầm và sự sai lầm đó cũng chẳng khác gì với sự sai lầm khi cho rằng chư Phật không hề hiện hữu. Tôi ý thức được rất rõ là cách nói đó khá khó hiểu. Thế nhưng cũng phải cố gắng để hiểu mà thôi. Phải cần có nhiều vị Phật khác nhau để giúp chúng ta mở rộng con tim và tâm thức của mình hầu có thể thích nghi với các cách suy nghĩ khác nhau. Nếu xem các vị ấy là thật thì sẽ có thể đưa đến tình trạng không nhận biết được thể dạng rộng mở mà họ có thể mang đến cho chúng ta, và chúng ta thì cũng sẽ rơi vào một hình thức đơn thuần của việc tôn thờ ảnh tượng. Trái lại, nếu xem các vị Phật ấy không thật và đơn giản chỉ là những gì mang tính cách huyễn hoặc, một thứ ảnh tượng hay là các biểu trưng thần tượng, thì chính đấy cũng sẽ là cách mà chúng ta đánh mất đi sự giúp đỡ quý báu của họ.
Có một vị Phật mang một cái bụng thật tothường thấy trong các nhà hàng ăn của người Tàu,
vị ấy mang ý nghĩa như thế nào?
Ở Trung Quốc người ta thường thấy một vị Phật đầu hói, béo phì, vui cười một cách hả hê, vị này khoác áo cà-sa và có một cái bụng thật to. Cách biểu thị đó đối với một vị Phật quả thật cũng đáng để chúng ta phải ngạc nhiên vì rõ ràng là lọt ra ngoài các cách biểu thị thông thường.
Nguồn gốc của nhân vật này là một vị thánh biểu trưng cho sự giàu sang. Cái bụng to tướng và cái vẻ hả hê của ông cũng như cả một đám trẻ con bu chung quanh ông là nhằm vào mục đích nêu lên sự giàu có của chính ông và đồng thời thì ông cũng sẽ sẵn sàng ban sự giàu có của mình cho những ai cầu xin mình. Vị này luôn mang bên người một cái túi vải đầy ắp các thứ quý giá, nào là lúa gạo, nào là kẹo bánh cho trẻ con. Tóm lại vị ấy là biểu tượng của hạnh phúc, sự may mắn và sung mãn.
Phật Giáo không hề loại bỏ các thói tục thờ phụng địa phương dù là ở bất cứ nơi nào tại Á Châu, mà chỉ tìm cách biến đổi phần nào ý nghĩa của sự thờ phụng đó. Phật Giáo biến vị thần linh có nguồn gốc xa xưa trên đây (thần tài) trở thành một vị biết tu tập Phật Giáo, hoặc xem đấy như chính là một thể dạng hóa thân của vị Phật lịch sử. Vì thế vị trên đây được xem là Phật Di Lặc, một vị Phật của tương lai (mang lại giàu có và hạnh phúc).