HTG-21: Nhảy vào suối mát ta chơi

Recent Pages: 1  2  3   5  6  7  8  9  10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23

Nhảy vào suối mát ta chơi

Nguyễn Duy Nhiên

Có lần vào một tiệm sách, thấy trên tường có treo một thư pháp thật đẹp viết “Dẫu biết vô thường sao lòng vẫn xót xa”. Tôi chợt nghĩ, có phải “lòng ta cảm thấy xót xa” vì cuộc đời vô thường và có nhiều thay đổi như câu thư pháp ấy viết không? Hay vì một nguyên nhân nào khác?

Thay đổi là sự tự nhiên

Nơi tôi ở có bốn mùa rõ rệt. Có những tháng tuyết rơi thật cao ngập trắng và xóa hết đường phố, rồi mùa xuân có hoa nở đủ sắc màu với những cành lá non tươi màu xanh mạ, và mùa hè về cây cỏ xanh rì soi bóng bên dòng suối trong mát. Và vào tháng này trời nơi đây đã bắt đầu vào thu. Tôi biết vài tuần nữa thôi, ngàn lá bên khu rừng nhỏ sau nhà sẽ đổi muôn màu, chúng rụng bay khắp trời, để lại một rừng cây trơ trọi khi trời trở lạnh và ngày ngắn đi hơn.

Tôi thấy rõ được sự đổi thay của bốn mùa, nhưng tôi không cảm nhận nó là vô thường. Bốn mùa thay đổi tự nhiên. Một buổi sáng vào thu nhìn những chiếc lá sắc màu dưới bước chân đi, tôi cảm thấy cái đẹp nhiệm mầu của thiên nhiên, của sự sống.

Tôi nghĩ, chúng ta thường chỉ nhắc đến vô thường khi nào có những việc gì xảy đến bất ngờ với mình. Một hôm trở về khu phố cũ, căn nhà ngày xưa giờ đã nhiều biến đổi, nhìn cánh cửa sổ, tấm sáo quen thuộc ngày nào… tôi chợt cảm thấy cuộc đời qua nhanh. Ta cảm thấy phiền muộn trước những đổi thay nào mà mình không muốn, hoặc không chấp nhận. Và đó mới là nguyên nhân của khổ đau.

Trong Kinh A Hàm, có lần ông Thôn trưởng Na Ca Dà hỏi Phật:

– Bạch Thế Tôn, nguyên nhân nào khích động các khổ?

Phật hỏi ông:

– Nếu trong thôn ông có người chết hoặc có người bị tai nạn, ông có buồn khổ không?

– Bạch Thế Tôn, có khi buồn khổ, có khi không.

– Tại sao?

– Nếu những người chết hoặc bị tai nạn ấy là bà con thân quyến của con thì con buồn khổ.  Trái lại thì con không buồn khổ.

Phật đáp:

– Gốc của sự buồn khổ là do lòng dính mắc vậy.

Như vậy thì sự đổi thay, chưa chắc sẽ mang lại cho ta khổ đau, nhưng chính những dính mắc của mình mới là nguyên nhân chánh.

Nghệ thuật buông xả

Và vì vậy, muốn có hạnh phúc và được an tĩnh trong cuộc sống chúng ta phải biết tập buông bỏ những vướng mắc, mong cầu trong tâm mình. Vì đó mới là nguyên nhân chính của khổ đau.

Nhưng chúng ta có thể buông bỏ được chăng? Các vị thiền sư thường dạy chúng ta một phương cách buông xả tuyệt vời nhất là hãy để cho thực tại được như nó là. Buông xả không phải là một phương cách để xử lý đối tượng hay chuyển hóa hoàn cảnh xảy ra, mà là một thái độ tiếp nhận trong sáng của tâm mình. Buông xả không phải là một sự dụng công nào của cái tôi, của bản ngã, mà chỉ là một thái độ tự nhiên.

Khi đứng trước những mất mát thay đổi, nếu trong tâm không an tĩnh thì ta thấy mình không an tĩnh, không sáng suốt thì thấy không sáng suốt, tâm phiền não thì ta thấy tâm đang phiền não. Có như vậy ta mới trọn vẹn được với thực tại đang là. Chứ ta không cần mong cầu nó được trở thành trạng thái hoàn hảo hay lý tưởng nào khác theo ý của mình. Và chừng ấy ta mới có thể thấy rõ được tuệ giác của lý vô thường. Những gì phải đến trong cuộc sống thì sẽ đến và khi chúng đi thì tự nhiên sẽ qua đi.

Buông xả bằng tình thương không dính mắc

Nhưng nếu như ta thấy mình vẫn còn phải cần làm một cái gì đó, thì đức Phật cũng có chỉ dạy cho chúng ta những phương cách để tạm thời chuyển hóa phiền não.

Thật ra, trong phạm vi tương đối của một thế giới tục đế này thì không có gì là thật sự trống không hết. Một ly đầy nước, nhưng khi ta đổ hết nước đi, thì ly ấy sẽ lại đầy không khí. Không cái này thì sẽ có một cái kia. Vì vậy đức Phật cũng có dạy những phương cách thông thường để buông xả rất hay.

Tôi nhớ trong bài kinh An Trú Tầm, Vtakkasanthàna sutta, Phật có dạy một cách buông bỏ bằng cách thay vào đó một cái gì tốt lành hơn. Ta có thể tạm buông bỏ một phiền não bằng cách thay vào đó bằng một niệm an vui. Lấy một hơi thở thay cho một bất an. Lấy một câu niệm Phật thay vào một tâm sợ hãi. Lấy một việc làm thiện lành thay cho một hành động xấu ác. Trong kinh, Phật có cho ví dụ như một người thợ mộc thay những con chốt (a peg) hư xấu của một chiếc bàn, bằng cách dùng một con chốt mới khác để đánh bật con chốt hư xấu ra ngoài, và thay vào đó bằng một con chốt tốt đẹp hơn.

Mà bạn biết không, tình thương là một con chốt tốt lành có thể đánh bật ra hết những muộn phiền, hờn giận, sợ hãi trong ta, và nó sẽ thay vào đó bằng một sự chấp nhận, an tĩnh, và hạnh phúc. Một tình thương lớn giúp cho ta có được một khả năng buông xả. Trong tứ vô lượng tâm: từ, bi, hỷ và xả, thì một tình thương sâu xa sẽ dẫn dắt ta đến sự xả bỏ, tha thứ và tiếp nhận được hết tất cả, ngay cả những khổ đau của chính mình. Tình thương nhỏ khiến ta bị dính mắc, nhưng với một tình thương lớn thì tâm ta sẽ không còn bị vướng vào một nơi nào hết.

Một bầu trời đầy sao sáng

Ngày xưa tôi nghĩ giáo lý của Phật quá siêu việt, với những lý Bát nhã, Trung quán, tánh Không, hay Bất nhị… cao xa quá, nên khó ai có thể hiểu thấu được. Nhưng bây giờ tôi nghĩ khác, đức Phật thường nhắc nhở rằng, khác với những vị đạo sư khác, ngài dạy chúng ta với một bàn tay mở rộng trọn vẹn. Ngài không dấu diếm hay giữ lại một điều gì có thể giúp ta chuyển hóa được khổ đau. Lời dạy của ngài đơn giản và trong sáng như bầu trời. Khó là ở chỗ ta có chịu quay về và nhìn lại chính nơi mình. Mà mấy ai muốn nhìn lại để thấy được nguyên nhân của khổ đau là do những ham muốn, thù hận và cố chấp của chính mình mà thôi.

Có lần tôi đọc một câu chuyện vui về ông Nasrudin, một nhà hiền triết Trung Đông. Một hôm ông và người bạn rủ nhau đi cắm trại ngoài sa mạc. Tối đến cả hai chun vào lều ngủ. Đến nữa khuya người bạn đánh thức ông dậy và nói: “Này anh, nhìn lên trên kìa, anh có thấy gì không?” Nasrudin nói: “À, bầu trời ngoài sa mạc đầy sao sáng, đẹp quá!” Anh bạn hỏi, “Anh thấy như vậy là có nghĩa gì không?” “Nhìn vô số những vì tinh tú trên bầu trời đêm, tôi thấy chúng ta quá nhỏ nhoi, kiếp người thật vô nghĩa.” Người bạn hỏi tiếp, “Nhưng anh không thấy gì nữa sao?” “Nếu mà theo quan điểm của chiêm tinh học, thì nhìn vị trí của các vì sao tôi có thể đoán là bây giờ khoảng hơn nửa khuya. Còn theo anh thì nó có nghĩa là gì?” Người bạn đáp, “Tôi thấy là ai đã đánh cắp chiếc lều của chúng ta mất rồi!”

Trên con đường tu học cũng vậy, nhiều khi chúng ta lo tìm kiếm và mong cầu xa xôi quá mà quên thấy được những gì đang có mặt, những nguyên nhân của khổ đau, ngay trước mắt mình.

Kinh kệ mệt hơi

Có lần đến thăm một tự viện nọ, vào thư quán tôi thấy khuất trong một góc bụi bậm trên một kệ sách có để một tượng Phật nhỏ ngồi thiền, rất đơn sơ không sơn phết. Hình dạng của tượng Phật thiếu cân xứng, lại có một dáng ngồi không thẳng và trang nghiêm như những tượng Phật khác. Người bán hàng nói rằng có một Phật tử đi Thái Lan về và tặng cho nhà sách để bán, thế nhưng không ai thỉnh vì tượng không được đẹp. Đa số ai cũng muốn thỉnh những tượng Phật có tướng tốt lành, và nhất là được làm bằng gỗ hay đá quý. Người bán hàng nói, nếu muốn chị sẽ biếu tặng tôi chiếc tượng ấy.

Và tôi thỉnh tượng Phật nhỏ ấy về đặt trên bàn viết của mình. Mỗi lần nhìn chiếc tượng nhỏ ấy, tôi cảm thấy đức Phật rất bình thường và gần gũi với mình. Nó nhắc nhở tôi xả bỏ hết những tự ti và tha thứ cho sự bất toàn của ta. Tôi cảm nhận được một tình thương và sự buông xả. Nhớ bài haiku của Thiền sư Nhật Giun,

          Kinh kệ mệt hơi

          Tám mốt tuổi rồi

          Gần đất xa trời

          Nhảy vào suối mát ta chơi

Đời sống luôn thay đổi và cũng nhiều vướng mắc. Hãy sống với một tình thương lớn. Sáng nay, dưới bước chân ta đi một chiếc lá thu rụng, hãy buông thả hết và cứ rong chơi đi bạn nhé…

Nguyễn Duy Nhiên

mh 918

đâu là của riêng ai

Có một anh chàng trai nghèo khổ nhưng lại có một tâm đạo rất lớn.  Mặc dù gia cảnh vất vả nhưng lúc nào anh cũng mong muốn tìm cho mình một con đường hạnh phúc, một hạnh phúc chân thật và không đổi thay.  Mỗi khi nghe nói bất cứ nơi đâu có vị thầy nào giỏi, thì dù hoàn cảnh khó khăn anh vẫn lặn lội tìm đến để cầu đạo.  Nhưng qua bao năm tháng anh vẫn không đạt được những gì mình muốn, hạnh phúc mà anh tìm kiếm vẫn thấy quá xa xôi.

Một đêm khi anh ngủ, trong giấc mộng có một vị thần hiện ra dặn anh sáng mai hãy đi thật sớm đến một khu rừng gần đó, anh sẽ gặp một vị tu sĩ, và hãy hỏi thì ông ta sẽ giúp cho anh có được một cuộc sống hạnh phúc.

Sáng hôm sau, anh ta mừng rỡ vội vàng lên đường đi về khu rừng ấy.  Đến nơi, anh gặp một vị tu sĩ ăn mặc đơn sơ, y áo làm bằng những tấm vải vụn vá lại, ngồi dưới một gốc cây lớn dáng rất an vui và tự tại.  Nhớ lời dặn của vị thần trong giấc mơ, anh quỳ xuống thưa:

“Kính thưa thầy, bấy lâu nay con đi tìm một con đường hạnh phúc.  Con muốn đạt được một cái gì đó mà có thể giúp con luôn được an vui và tự tại trong mọi hoàn cảnh.  Con đã đi tìm cầu khắp nơi, và học từ nhiều vị thầy, nhưng vẫn không cảm thấy đạt được những gì mình muốn.  Con xin thầy thương sót từ bi chỉ dạy cho con.”

Vị tu sĩ ngước nhìn anh với ánh mắt từ ái, rồi nói,   “Thú thật ta cũng không có gì khác để dạy cho anh thêm nữa hết.”  Rồi vị tu sĩ cúi xuống tìm trong túi vải mình và lấy ra một vật, ông nói, “Ta chỉ có một vật này, không biết của ai cúng dường cho, thôi anh hãy cầm lấy đở đi”

Nói xong, vị tu sĩ trao cho anh một vật trông như một viên đá chiếu sáng lấp lánh.  Anh cầm trong tay và xem kỹ lại thì đó là một viên ngọc quý rất lớn.  Tim anh như ngừng đập!  Chưa bao giờ anh được thấy, chứ đừng nói là cầm trong lòng bàn tay, một vật quý giá đến như vậy.  Với viên ngọc quý này, nó có thể mang lại cho anh bất cứ một hạnh phúc nào trên cuộc sống mà anh muốn.  Phải chăng con đường hạnh phúc mà anh đang tìm kiếm bấy lâu nay, nó đang rộng mở ra ngay trước mặt mình.

Anh mừng rở vô cùng, bật khóc và quỳ xuống đảnh lễ vị tu sĩ.  Anh nhà nghèo từ giã vị tu sĩ và trở về căn chòi cũ của mình.  Đêm hôm ấy anh trằn trọc và không tài nào ngủ được, anh cứ mơ tưởng về tất cả những sự sang giàu, quyền lực, địa vị và hạnh phúc trên cuộc đời mà mình có thể đạt được nhờ viên ngọc này.  Và, anh cũng suy tư sâu xa về giấc mộng và vị tu sĩ ấy…

Sáng hôm sau, khi mặt trời chưa lên, anh đã vội vàng lên đường quay trở lại khu rừng ấy.  Anh mừng rở khi thấy vị tu sĩ vẫn còn ở đó, ngồi yên với dáng thong dong.  Anh đến cạnh bên và quỳ xuống thưa:

“Thưa thầy, con xin trả lại thầy viên ngọc quý này.  Con đã suy nghĩ nhiều và hiểu rằng, viên ngọc quý này không thể nào mang lại được cho con một hạnh phúc mà con muốn.  Điều mà con mong cầu, là làm sao có được cái tấm lòng của thầy mà đã có thể trao cho con viên ngọc quý ấy không chút luyến tiếc.  Chứ con không cần viên ngọc này.  Kính xin thầy chỉ cho con làm sao để có được tấm lòng rộng lớn ấy.”

Tặng một vầng trăng

Full-Moon-2016Câu truyện ấy gợi tôi nhớ đến vị thiền sư thi sĩ Nhật bản Ryokan.  Thiền sư Ryokan sống một cuộc đời rất thanh bần, ông ở trong một thảo am mái lợp bằng rạ.   Buổi tối ông ngồi thiền và ban ngày thường chơi đùa với trẻ con trong làng.  Có lần, ông thấy giữa am mình có một búp măng tre mọc nhú lên, rồi ngày qua ngày nó mọc lớn lên thành một cây tre cao đụng vào nóc nhà.  Thấy thương cho cây tre, ông bèn khoét một lỗ trên mái để nó có thể tự nhiên mà chui qua ra ngoài.

Vào một đêm trăng sáng nọ, có một tên ăn trộm lẻn vào lều của ông.  Hắn nhìn quanh không thấy có gì để lấy, vì Ryokan chẳng có gì ngoài chiếc chăn để đắp ngủ.  Tên ăn trộm bèn đánh cắp cái chăn duy nhất của ông và chạy thoát ra ngoài.  Một lát sau, hơi lạnh thấm vào người, Ryokan giật mình thức giấc mới biết là mình đã bị trộm lấy mất.

Lúc đó, ông ngước nhìn qua khung cửa sổ, thấy một vầng trăng vằng vặc sáng trên cao.  Ryokan chợt thốt lên:  “Ô!  Vầng trăng đêm nay đẹp quá!  Ước gì ta có thể tặng cho tên trộm ấy vầng trăng tuyệt đẹp này?”

Ai ban cho mà ai tiếp nhận?

Tôi thấy câu truyện về vầng trăng của thiền sư Ryokan cũng giúp làm sáng tỏ thêm tấm lòng của vị tu sĩ trong câu truyện trên.

    Làm sao Ryokan có thể tặng cho tên trộm được vầng trăng sáng ấy bạn nhỉ?  Cũng như vị tu sĩ kia, ví như ông có muốn trao cho anh nhà nghèo tấm lòng của mình đi chăng nữa, như anh mong muốn, có chắc gì anh ta sẽ tiếp nhận được chăng?  Người cho không thể cho mà người nhận cũng chắc gì sẽ nhận được.

Tôi thường nghe nói rằng, chúng ta chỉ có thể trao tặng những gì mình thật sự có mà thôi.  Ví dụ, ta chỉ có thể tặng cho người khác niềm vui nếu như ta có sự an vui, ta chỉ có thể giúp cho người khác không sợ hãi nếu như trong ta có được một sự vô úy.  Đó là một điều rất thật.  Nhưng bạn biết không, nếu nhìn sâu sắc hơn thì ta cũng sẽ thấy rằng, thật ra chúng ta không có gì để ban cho hay tiếp nhận, mà chỉ tạo duyên giúp nhau tiếp xúc lại một thực tánh trong sáng đang sẵn có trong mỗi người mà thôi.

Như một bà mẹ ôm đứa con đang khóc của mình vào lòng và dỗ cho nó.  Khi đứa bé nín khóc và ngủ yên, bà mẹ cũng cảm thấy một niềm an vui và hạnh phúc.  Ai là người cho và ai là kẻ nhận bạn hả?

Có mặt ở mọi nơi

Trời vùng tôi ở tháng này đã vào thu, khi buổi sáng trời trở lạnh và ngày ngắn đi, khi bình minh đến chậm và chiều buông cũng vội vàng hơn.  Không gian trời Thu thật đẹp.  Rừng cây một màu xanh mấy tuần trước giờ đã chuyển thành một bức tranh Monet muôn sắc màu sặc sỡ.  Con đường tôi đi có muôn chiếc lá đủ màu, và mỗi khi có gió lộng không trung tràn ngập những màu sắc cam, vàng, đỏ, tím tung bay.  Những lúc đứng trước một cảnh đẹp tuyệt mỹ của đất trời, tôi ước gì cũng có một ai khác đang ở đây để được cùng chia sẻ.  Nhưng tôi hiểu rằng vẽ đẹp và sự chân thiện có mặt ở mọi nơi, trong mọi hoàn cảnh, chứ đâu riêng gì ở nơi này trên con đường nhỏ mùa thu vào một buổi chiều lộng gió…

Như vầng trăng sáng kia muôn đời là của chung, chứ đâu là của riêng ai để ta mơ ước hay ban tặng cho nhau.  Nhưng bạn biết không, tôi biết chắc được một điều, chúng ta bao giờ cũng có thể là duyên để nhắc nhở và mang lại hạnh phúc ấy cho nhau…

Nguyễn Duy Nhiên

Nguồn: Nguyễn Duy Nhiên’s blogspot

Moon July 21, 2016 - 4a