ÐẢN SANH 2

Recent Pages:  1  2  3  4  5  6  7

NHỚ MÙA PHẬT ĐẢN
Nhạc Võ Tá Hân – Thơ Bảo Nguyên


Uploaded by votahan

Vài suy nghĩ về sự Ðản Sanh của Ðức Phật

Thích Thiện Bảo

Đức Phật không chỉ là một nhân vật lịch sử được cả thế giới biết đến, mà còn là một bậc Giác ngộ vĩ đại, một vị Thánh nhân trong tâm tưởng của mọi người.

Muốn tìm hiểu đạo Phật, trước hết phải hiểu Đức Phật, bởi chính cuộc đời của Ngài nói lên tinh thần giáo lý mà Ngài đã chứng ngộ và tuyên thuyết.

Nói về Đức Phật, nếu ta chỉ đứng trên quan điểm lịch sử thôi thì chưa đủ, chưa khắc họa được một cách hoàn mỹ con người siêu việt ấy. Do vậy, kết hợp giữa Đức Phật lịch sử và Đức Phật huyền thoại sẽ mang lại cho chúng ta một bức chân dung sắc nét, toát lên đầy đủ tinh thần, tính cách và tầm cỡ của Đức Phật.

Đức Phật ra đời cách đây đã hơn hai thiên niên kỷ. Thời ấy, phương tiện ghi chép lịch sử chưa được như ngày nay, chủ yếu là truyền miệng từ đời này sang đời khác, nên việc lưu lại lịch sử Đức Phật rất khó chính xác. Tuy nhiên, không vì thế mà chúng ta không khẳng định được những nét cơ bản hợp lý trong lịch sử cuộc đời Ngài.

Những cứ liệu lịch sử do các nhà khoa học chứng minh thì đã rõ, nhưng những truyền thuyết dân gian cũng không thể chối bỏ, bởi truyền thuyết cũng phần nào dựa trên những yếu tố cơ bản có thật để xây dựng. Những tình tiết dù không có thật nhưng cũng nói lên, phản ánh được tinh thần của vấn đề. Con người không thể bảo rằng cái gì chưa chứng minh được thì điều ấy là không có thật. Ngày nay, khi mà khoa học chưa thể tìm ra một cách đầy đủ về cuộc đời Ngài, thì truyền thuyết là những nét chấm phá để chúng ta có thể dựa vào đó mà hoàn thiện hình ảnh một con người vĩ đại đã mang lại cho nhân loại sự độc đáo về tư duy, về triết học; mang lại cho những người quan tâm đến đời sống tâm linh một con đường an lạc, giải thoát siêu việt, và thiết thực nhất là mang lại cho xã hội một nền tảng đạo đức cao cả về lòng từ bi, vị tha vô lượng.

Có khá nhiều sử sách ghi chép khác nhau về năm sinh, năm xuất gia của Đức Phật. Điều này có nhiều nguyên do (do quan niệm, do cách suy luận, do dựa vào nhiều cứ liệu lịch sử khác nhau…) nhưng nguyên do cơ bản nhất có lẽ là xuất phát từ đặc điểm tư duy của người Ấn Độ. Người Ấn xưa không đặt nặng vấn đề thời gian, chính vì vậy mà lịch sử Ấn Độ xưa thường không chú trọng việc ghi chính xác ngày tháng. “… Người Ấn chú ý đến những điều giáo huấn, nghi thức hơn là tính chính xác của lịch sử” (Nguyễn Tấn Đắc – Văn hóa Ấn Độ). Tuy nhiên, dù chưa xác định chính xác niên đại, thì năm sinh của Đức Phật – theo một số sách sử nghiên cứu, được nhiều ý kiến đồng tình, ghi lại – cũng chỉ dao động trong vòng khoảng 100 năm. Do vậy, chúng ta có thể chấp nhận được, vì điều này không ảnh hưởng đến hệ thống tư tưởng giáo lý của Ngài, bởi trong vòng một thế kỷ, hệ tư tưởng con người không có sự khác biệt nhiều.

Theo Phật lịch của chúng ta hiện nay thì Đức Phật đản sanh vào năm 624 trước Tây lịch. Quê hương Đức Phật là một vùng đất với các cánh đồng có những cây Sa la (Sàla) sừng sững. Phía Bắc là dãy núi Hy Mã Lạp Sơn (Hymalayas) với đỉnh núi quanh năm tuyết phủ. Phụ vương Ngài là một quốc vương cai trị vùng đất này, thủ phủ là thành Ca Tỳ La Vệ (Kapilavatthu) gần biên giới Nepal và Ấn Độ ngày nay.

Vua Tịnh Phạn là một vị vua rất nhân từ và sáng suốt. Đức vua và hoàng hậu đã lớn tuổi nhưng chưa có con nối dõi, do đó, có được một hoàng tử là niềm mong ước của thần dân. Vào một ngày đẹp trời, thành Ca Tỳ La Vệ tổ chức lễ Tinh tú, nhà vua và quần thần cùng nhau dâng lễ. Hoàng hậu Ma Da là một người đức hạnh và rất từ tâm, sau khi dâng lễ, Người liền ra khỏi thành để bố thí thức ăn và đồ mặc cho những người nghèo khó, tàn tật…

Đêm hôm đó, hoàng hậu chiêm bao thấy voi trắng sáu ngà từ trên không sa xuống và ẩn vào bên hông bên phải (Phong tục Ấn xem bên phải là thiêng liêng. Người ta luôn đặt những hình tượng tôn kính về bên phải).

Sáng hôm sau, hoàng hậu đem điềm chiêm bao đó tâu lên đức vua; nhà vua liền mời các vị bốc sư đoán mộng, những vị này đều đoán là hoàng hậu sẽ sanh ra một hoàng nam tài đức song toàn.

Dự đoán tốt đẹp ấy đã trở thành sự thật. Hoàng hậu sau đó hạ sinh được một thái tử khôi ngô tuấn tú, thần thái tinh anh rất là đặc biệt.

Theo tập tục Ấn Độ thời bấy giờ, người phụ nữ khi sắp sanh phải trở về quê hương cha mẹ của mình để được mẹ ruột chăm sóc. Trên đường đi về quê, đến làng Lâm Tỳ Ni (Lumbini) thì hoàng hậu hạ sinh thái tử trong lúc Người đứng vịn vào một cành cây Vô ưu (một loại cây có tên khoa học là Saraca asoca).

Năm 1896, các nhà khảo cổ (nhà khảo cổ người Anh tên là Cuningham) đã khai quật được một số di chỉ quan trọng ở Lâm Tì Ni, trong số đó có một thạch trụ cao 6,5 mét do hoàng đế Asoka dựng năm 245 trước Tây lịch, trên đó có ghi đại ý như sau: “Quốc vương Devànampiya Piyadasi sau 25 năm lên ngôi đã ngự đến đây chiêm bái. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã Đản sinh tại đây. Nhà vua ban lệnh khắc tượng đá và cột đá để kỷ niệm nơi Ngài đản sinh. Nhà vua miễn thuế đất và giảm thuế hoa lợi cho làng Lumbini.”

Truyền thuyết kể lại rằng: Ngài ra đời lúc ánh nắng của buổi bình minh lấp lánh, trong không khí ngào ngạt của trăm hoa đua nở như đón chào một vị cứu thế vĩ đại. Có rất nhiều những bản kinh văn ghi chép, ca ngợi giờ phút long trọng ấy. Đặc biệt và phổ biến nhất là hình ảnh hài nhi bước đi bảy bước, dưới chân nở những hoa sen, tay chỉ trời, tay chỉ đất và nói như một lời tuyên thuyết: “Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn; Vô lượng sanh tử, ư kim tận hỷ”. Câu nói này được giải nghĩa nhiều cách khác nhau, nhưng nói chung là nhằm ca ngợi tôn vinh Đức Phật với lòng biết ơn, kính yêu vô lượng của những người chí tâm sùng bái Ngài, đồng thời cũng mang ý nghĩa khái quát tinh thần giáo lý đạo Phật.

Được tin hoàng hậu hạ sanh thái tử, nhà vua cùng quần thần vô cùng hân hoan, liền đem xa giá đến đón. Cả vương quốc mở hội tưng bừng, mừng sự ra đời của thái tử. Các nhà hiền triết được mời vào cung để tiên đoán vận mệnh của Người. Đứng trước vẻ đẹp xuất thế của thái tử, tất cả đều tiên đoán rằng thái tử sau này chắc chắn sẽ trở thành một bậc vĩ nhân. Vị tế sư của hoàng tộc, có uy tín lâu năm tên là A Tư Đà (Asita) đã không ngăn được cảm xúc của mình. Ông ứa nước mắt nói rằng ông vô cùng vui mừng vì từ nay nhân loại đã có được một đấng cứu thế, ông tiếc rằng mình tuổi đã cao, không còn sống đến ngày được nghe bậc Thánh nhân truyền dạy. Ông căn dặn người cháu của mình, Nàlaka, ngày sau hãy theo phò tá bậc vĩ nhân này.

Lễ đặt tên cho thái tử được các vị Bà la môn đảm trách. Trong số đó có vị tên là Kiều Trần Như (Kondanna), sau này trở thành người đệ tử xuất gia đầu tiên của Đức Phật. Thái tử được đặt tên là Sĩ Đạt Ta (Siddhattha).

Thường thì con cái của các vị vua chúa, quan lại khi mới sinh đều được các thầy tướng số đoán xem vận mệnh, bởi đó là những nhân vật quan trọng, có thể kế nghiệp tổ tiên. Các bậc khai sáng, giáo chủ của các tôn giáo khác cũng thế. Các bậc ấy được các thiên thần báo tin, chào đón với những lời khẳng định chắc chắn địa vị, vai trò của họ sau này. Riêng Đức Phật, truyền thuyết cho rằng: những nhà tiên tri đưa ra hai giả thuyết, một là thái tử sẽ trở thành một vị vua kế nghiệp tài ba; hai là thái tử sẽ trở thành một bậc Thánh nhân xuất chúng. Chi tiết ấy cho ta thấy được tính khách quan trung thực, không tùy tiện áp đặt của những lời tiên đoán. Đó cũng là sự xác thực, rạch ròi của quan điểm giáo lý đạo Phật sau này. Nhìn một đứa bé với những nét khôi ngô đặc biệt, thần thái uy linh, người ta có thể tiên đoán một cách khoa học rằng sau này đứa bé ấy sẽ trở thành một nhân vật đặc biệt. Các nhà tiên tri căn cứ vào địa vị thái tử để tiên đoán sau này Sĩ Đạt Ta sẽ trở thành một vị minh quân vĩ đại; căn cứ vào tình hình xã hội và các trào lưu tư tưởng Ấn Độ thời bấy giờ để tiên đoán sau này Sĩ Đạt Ta sẽ trở thành một vị Thánh nhân xuất chúng, mang lại cho loài người một chân lý tốt đẹp nhất. Tuy nhiên, những lời tiên đoán cũng nghiêng về phía ý kiến cho rằng sau này thái tử sẽ trở thành một vị Phật. Trước nhất là ý kiến của vị hiền triết A Tư Đà – một lão trượng rất được hoàng tộc trọng vọng từ đời vua Sìhahanu, phụ thân của vua Tịnh Phạn, và sau đó là ý kiến của Kiều Trần Như – vị Bà la môn trẻ tuổi nhất trong tám vị Bà la môn cử hành lễ đặt tên cho thái tử. Cả hai, một già một trẻ, đại diện cho hai thế hệ, mang ý nghĩa biểu hiện sự hoàn hảo của tư tưởng, đều quả quyết rằng thái tử sẽ trở thành một vị Phật. Cũng chính vì niềm tin có được từ đây mà sau này Kiều Trần Như đã trở thành người ngộ giáo pháp đầu tiên và chứng quả ngay sau khi được Đức Thế Tôn thuyết giảng.

Tất cả những lời tiên đoán về Đức Phật bao hàm những ý nghĩa triết lý cao siêu hơn là chất mê tín mà người ta thường gán ghép cho những nhân vật huyền thoại. Sở dĩ có những lời tiên đoán ấy là để nói lên rằng: Đây không phải là một con người bình thường! Con người này không phải do học hỏi kiến thức mới được thành tựu viên mãn. Con người ấy đã mang sẵn trong mình tư tưởng siêu phàm, tố chất thuần khiết, tinh hoa vũ trụ…và tâm từ vô biên. Để sau này, bằng nỗ lực bản thân, với sự tu tập kiên trì, sáng suốt của mình, con người ấy chứng ngộ được chân lý siêu việt bằng chính khả năng của mình, chớ không nhờ vào một tha lực nào khác, không phải vì một sự phó thác nào khác. Con người ấy sẽ mang lại cho thế giới này một chân lý giải thoát tối ưu nhất. Giáo pháp của Ngài không phải do một đấng chí tôn nào trao truyền lại, cũng không phải do Ngài sáng tạo ra; giáo pháp ấy là chân lý tuyệt đối hằng hữu, mà chính Ngài đã chứng đắc.

Nguồn: ÐPNN

Phật giáng trần

Thích Lệ Thọ

Ngày Phật giáng trần là một mặt trời sáng rỡ trong buổi sớm mai, làm mất đi bóng tối của đêm dài, đang bao trùm lên tam giới. Ngài là vị cứu tinh không chỉ dành riêng cho xứ Ấn Ðộ thời ấy, mà còn là của cả nhân loại.

Hàng năm, cứ tháng Tư về là mỗi độ sen hồng lung linh sắc màu được tích tụ sâu trong lòng đất Việt. Một loài hoa có hương thơm nhẹ nhàng tinh khiết, và màu hồng của búp sen non vươn lên khỏi mặt nước như chứa đựng một sức sống mới của kiếp nhân sinh. Sự gắn bó hòa quyện của sen bao đời nay trong tâm trí của người con Phật nói riêng và người Việt nói chung. Sen là biểu tượng của đất nước và khi bàn về triết lý sen là một hình ảnh diễn tả ngôn ngữ giải thoát. Nên 2.555 năm về trước Bồ tát Hộ Minh giáng trần, đem ánh sáng trí tuệ đến cuộc sống này đã đi trên bảy đóa sen.

Sự kiện giáng trần đó được diễn tả: “Bảy đóa sen vàng nâng gót ngọc, ba ngàn thế giới đón như Lai”. Ngài ra đời, bước đi trên bảy đóa sen, ngước nhìn sáu phương, bước cuối cùng dừng lại tuyên bố: “Trên trời dưới đất, duy chỉ có ta tôn quí, ta muốn độ chúng sanh thoát khỏi sanh già bịnh chết”, xác quyết sự thành tựu Vô thượng giác. Vào đời với bảy bước chân trí tuệ, từ bi, hỷ xả, an lạc, vô tranh, bất nhiễm và tự tại. Đã thể hiện cư trần bất nhiễm trần mà ba đời chư Phật đã đi qua.

Phẩm Thụy Ứng khẳng định: “Bồ Tát đản sanh, bước thứ nhất nhìn về phương Đông, vì chúng sanh mà làm Bậc dẫn đường tối thượng. Phương Đông, nơi phát xuất bình minh tuệ giác. Chúng sanh từ nơi tăm tối của dục vọng, vô minh muốn cất bước chân đầu tiên vào đạo lộ giải thoát phải nương theo tuệ giác, tiếp nhận ánh sáng Tam bảo để hoàn thiện nhân cách. Muốn vậy, phải kiện toàn đạo đức, tri thức thông qua học hỏi, suy nghiệm và thực hành Chánh pháp. Trước khi trở thành thánh nhân, phải nỗ lực để sống xứng đáng là một con người. Do vậy, tu tập Nhân thừa chính là bước chân đầu tiên. Bước chân nầy phải đặt trên hoa sen mới đúng nghĩa và trọn vẹn”.

Trên quan điểm đó cho chúng ta thấy, sự có mặt của Ngài là một sự kiện trọng đại cho số đông loài người và các cõi trời đã được Ngài đặt dấu chấm hết cho kiếp sống luân hồi sinh tử, thông qua câu nói đầy ấn tượng: “con người khổ đau không phải do thiếu cơm ăn áo mặc hay đối mặt với sống chết mà do thiếu trí tuệ”.

Điều này thấy rõ ràng nhất qua trận sống thần trên đất Nhật có rất nhiều hình ảnh cùng rất nhiều câu chuyện cảm động được chuyển về từ tâm chấn: “một phụ nữ đã gọi lại một thanh niên trên đường để tặng chiếc bánh mì, dù cửa hàng bánh của chị mỗi lúc một cạn kiệt hơn; một em nhỏ kiên quyết xếp hàng đợi đến lượt mình để lấy nước sạch, thay vì nhận ân huệ “nhường chỗ” của những người đứng trên. Và đáng phục nhất có lẽ chính là câu chuyện được một cảnh sát Nhật gốc Việt Nam thuật lại khi anh tặng một miếng lương khô của mình cho một em bé 9 tuổi đã mất cha, mất mẹ, giờ đang xếp hàng nhận đồ cứu trợ.

Em bé ấy, trong cơn đói khát cùng quẫn đã không ngấu nghiến ăn ngay miếng lương khô như tưởng tượng của anh, mà mang nó đến chỗ những người đang phát thực phẩm với một suy nghĩ khiến cả nhân loại phải ngả mũ rằng: “Có lẽ còn nhiều người đói hơn con. Bỏ vào đó để các cô, các chú phát chung cho công bằng chú ạ”.

Để giải mã sức chịu đựng phi thường của người dân Nhật: Giáo sư Pflugfelder, người có mặt tại Nhật Bản vào thời điểm xảy ra thảm họa, kể với đài CNN về những dòng người xếp hàng trật tự tại các ga tàu điện đã đóng cửa trong nhiều giờ do thảm họa. Hiện tượng này có cội rễ từ nền văn hóa Nhật Bản. “Khi gặp sự việc tính cực thì người Nhật tìm đến các nghi thức của Thần đạo và Khổng giáo, nhưng khi gặp tai họa hay thảm kịch thì họ hướng về Phật giáo”, theo ông Nelson.

Truyền thống cư xử của dân tộc ta cũng tốt đẹp không thua kém của Nhật Bản. “Lá lành đùm lá rách”, “thương người như thể thương thân”, “nhường cơm sẻ áo” v.v… đã trở thành một phần của hơi thở và huyết quản của người dân Việt. Còn đứng về mặt nhận thức, hình ảnh Thánh Gióng và Thần Kim Quy ở hồ gươm, cũng nói lên một dân tộc có 4.000 ngàn năm văn hiến, luôn lấy đức hiếu sinh làm gốc. Qua hình ảnh khi đánh đuổi hết giặc ngoại xâm thì Thánh bay về trời, và vua Lê Thái Tổ trả gươm lại cho Thần. Phải chăng tính nhân bản đó đã thấm nhuần về luân hồi, quả báo, từ bi, hỷ xả của đạo Phật!

Xét những dữ kiện trên cho chúng ta thấy sự xuất hiện của đức Phật là chỉ ra một lối thoát cho nhân sinh trong nhận thức và lối sống. Qua thảm trạng ở Nhật Bản đều làm cho những nhà hoạch định tương lai phải thay đổi hoặc dừng lại. Bởi mọi thành tựu của khoa học ngày nay đều nhỏ bé trước sức mạnh vô biên của thiên nhiên. Còn đối với nhận thức, thái dương hệ của chúng ta là một phần rất nhỏ của Vũ trụ. Suy cho tận cùng, sự sống này rất mong manh. Chỉ có con đường gieo trồng phước đức. Trong các ruộng phước thì Tam bảo là ruộng phước tốt nhất cho hạt giống trí tuệ, từ bi và giải thoát đâm chồi nẩy lộc. Đồng thời, thực hành chuyển hóa nghiệp ác của thân, miệng, ý thành nghiệp thiện và mười nghiệp ác thành mười nghiệp lành để thoát khỏi thái dương hệ.

Tuy nhiên, với Phật nhãn các cõi trời cũng chưa phải là nơi an toàn. Vì ngài đã từng cư trú bốn ngàn năm nơi cõi trời Đẩu Suất làm Bồ tát bổ xứ, lãnh đạo chư Thiên cõi này dùng pháp tướng để giáo hóa thiên chúng.

Đến đây chúng ta thấy sự xuất hiện đức Phật là một niềm vui vô tận cho tất cả muôn loài chúng sanh. Ngài quán sát thấy chúng sinh chịu khổ đau triền-miên vô bờ bến trong lục đạo, chỉ có con đường chuyển hóa nghiệp hướng đến chấm dứt nghiệp. Tâm phải nương vào thiền định để thân chứng vô ngã tính và vạn pháp giai không, từ đó mới thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi, đạt đến niết-bàn tịch tĩnh.

Tóm lại, ngày Phật giáng trần là một mặt trời sáng rỡ trong buổi sớm mai, làm mất đi bóng tối của đêm dài, đang bao trùm lên tam giới. Ngài là vị cứu tinh không chỉ dành riêng cho xứ Ấn Ðộ thời ấy, mà còn là của cả nhân loại. Ngài là người đầu tiên khởi xướng thuyết “nhân bản”, lấy con người làm cứu cánh để giải quyết hết các vấn đề bế tắc của thời đại, cả về nhân giới, tâm giới và siêu giới. Đạo lý của Ngài là nguồn sống, là ánh sáng, và là niềm tin cho nhân loại, chân lý đó đã vượt không gian và thời gian… Cho nên trong kinh Pháp Hoa khẳng định, Ngài thị hiện ra đời là vì một nhân duyên lớn “khai thị chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến” nên ngày rằm tháng tư, ngày Phật Đản hay lễ Vesaka Bồ tát Hộ Minh từ cung trời Đâu Suất giáng trần là hết sức quan trọng, xem như đó là ngày khai sinh đạo Phật, đã đem đến cho nhân sinh một bước ngoặc trong cuộc sống không chỉ có giá trị đến bây giờ mà còn mãi đến ngàn sau!

Lệ Thọ

Nguồn: ÐPNN

Hãy tìm hiểu
ngày nào là ngày lễ Phật đản

Nguyễn Đức Can

Nguồn gốc của đạo Phật là phát sinh từ xứ Ân Độ, Trung Quốc là một nước lớn đạo Phật du nhập sớm, kinh sách dịch ra chữ Hán rất nhiều, truyền sang nước ta gắn liền với âm lịch hiện nay ta vẫn dùng. So sánh hai thứ lịch này với nhau để xét tìm bằng cớ : Phật giáng sinh vào ngày nào, tháng nào của lịch Ấn Độ, ngày đó có phải ngày trăng tròn hay không, đem ghép vào lịch Trung Quốc mà tính toán, xem nhằm vào ngày nào, tháng nào của thứ lịch này thì mới thấy rõ được.

Nhân dip Đại Lễ Phật Đản năm Quí Mùi 2003, tôi xin gửi đến quí độc giả bốn phương, nhất là Phật Tử, hãy cùng tôi tìm hiểu và xác định ngày nào là ngày Đại Lễ Phật Đản, tại sao tôi lại trở lại vấn đề này, vì có một số người hỏi tôi, bằng thơ, điện thoại, E-Mail và yêu cầu tôi giải thích, thực ra tôi không đủ trình độ để xác định ngày nào là ngày Đại Lễ Phật Đản chính thức và đúng, nhưng tôi cũng cố gắng sưu tầm biên soạn ra tư liệu này cống hiến quí vị Phật Tử hiểu rõ. Nếu quí Chư Tôn Đức Tăng, Ni và các vị thiện trí thức cao minh nào có các dữ kiện khác kính xin chỉ giáo.

Đây là một sự kiện lịch sử, là một nghi lễ trọng đại nhất trong đạo, đối với ngày xuất thế của Đức Thế Tôn, ngày lễ này đã được lưu truyền từ ngàn xưa, ngay từ khi đạo Phật ở Ấn Dộ mới truyền sang các nuớc phương Đông, những bộ kinh Phật phiên dịch từ Phạn văn ra Hán văn, ở  Đông Hán (Trung Quốc), bộ này nói về lịch sử Phật Tổ, ngày giáng sinh của Đức Phật Thích Ca đã xuất hiện là ngày 8 tháng 4 âm lịch, điều này nhiều nhất thấy ở các kinh sách Phật Giáo Bắc Tông. Nhưng Bắc Tông cũng có bộ nói sinh ngày 15 (trăng tròn) đó là bộ Tây Vực Ký đời nhà Đường.

Trước kia nước ta cũng như các nước lớn trong khu vực Châu Á như Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên…..đều làm lễ Phật Đản vào ngày 8 tháng 4 âm lịch . Tên gọi cũng như việc làm ngày Phật Đản, “ngày tám tháng tư “ đã lưu truyền hàng bao thế kỷ ở nhiều nước trên thế giới, đã trở thành phong tục tập quán cổ truyền, ấn tượng ăn sâu vào đầu óc mọi người, kể cả người theo hay không theo đạo Phật cũng đều nhớ như vậy.

“Cách xa dù mấy nhịp cầu.

Đến ngày Phật Đản 5 châu cũng gàn.”

“Dù ai buôn bán đâu đâu

Nhớ ngày Phật Đản rủ nhău mà về”

Nhưng kể từ đầu thập niên năm sáu mươi thi ngày Phật Đản lai là ngày 15 tháng 4 âm lịch và cứ tiếp nối từ đó đến nay hàng năm cứ đến ngày trang tròn tháng 4 là ngày Đản Sanh của Đức Thế Tôn mà hầu hết các nước ở Châu Á và những người con Phật trên kháp năm châu đều nhộn nhịp tổ chức kỷ niệm của Đức Phật giáng trần. Vậy ta thử tìm hiểu xem tại sao ?. Nguồn gốc của đạo Phật là phát sinh từ xứ Ân Độ, Trung Quốc là một nước lớn đạo Phật du nhập sớm, kinh sách dịch ra chữ Hán rất nhiều, truyền sang nước ta gắn liền với âm lịch hiện nay ta vẫn dùng.

Ở đây chú ý một diều : Gọi là ngày trăng tròn, nhưng chính là thời điểm trăng tròn thì giờ quãng đầu của ngày đó, phải tưởng tượng như mình đang đứng ở góc độ múi thứ sáu của địa cầu làm mốc mà nhìn trăng tròn, mới đúng giờ “sao mai mọc” hay giờ Dần, khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mầu Ni đản sinh ra cõi nhân gian trong ngày đó. Nếu chỉ chung chung, dựa vào những câu đơn thuần trong các bộ kinh sách nói từ xưa, thì không có gì xác đúng cho lám, không thể khám phá vấn đề mà giải quyết dứt khoát được.

Trong bộ Phật tổ thống ký đã tập hơp sáu bộ kinh sử đều nói Phật giáng sinh năm Giáp Dần : a)Chu thư dị ký. b)-Pháp bản nội truyện, c)- Nguỵ thư – d)- Nam nhạc, -đ)- Phụ hành, e)-Pháp lâm. Tất cả đều thống nhất nói rằng : Đức Phật Thích Ca giáng sinh nhằm đời nhà Chu Cơ, vua Chiêu vương năm thứ 26 (có chỗ nói năm thứ 24) là năm Giáp Dần (tính theo lối 60 mươi năm hoa giáp của Trung Quốc).

Bộ thống ký này tính toán rất tỷ mỷ, diễn tả từ khi Phật còn là vị Bồ tát ngự trên cõi trời, Đản sinh xuống cõi người, đến khi xuất gia (năm Mậu Dần, 25 tuổi đời), thành đạo ( năm Quí Mùi, 30 tuổi đời) , nhập diệt (năm Mậu thân, 79 tuổi đời). Tính đến năm Đinh mão – dương lịch 67 – niên hiệu Vĩnh Bình năm thứ 10, đời vua thứ II Minh đế đời Đông Hán, kinh Phật băùt đầu truyền dịch sang chữ Trung Quốc, rồi tính tiếp đến năm 2003 thì được 3021 năm.

Như vậy Đức Phật giáng sinh trước vị Giê-su giáng sinh 1027 năm (Năm kỷ nguyên theo tây lịch là năm Tân Dậu, vào khoảng đầu thế kỷ thứ 6, một số nước theo thiên Chúa giáo ở Châu Âu cũng chưa tìm được đúng năm sinh của vị Giê-Su, khi ấy họ họp nhau lại bàn cách đem số nguyệt chu nhân với số tuần chu để lấy kết quả được (19×28=532) liền quyết định lấy ngày năm đầu của số này làm năm kỷ nguyên của Thiên Chúa gọi tát là Công nguyên.

Ngay cả cái ngày 25 tháng 12 cũng là ngày sinh của vị thần Công-xtăng-ti-nốp sùng bái, sau khi chinh phuc được nước này rồi lấy ngày đó làm ngày Noen của vị Giê-su, theo lối Âu Tây thường kể tuổi tròn, người ta qui định vị Giê-su tuổi Canh Thân, năm tuổi này là năm thứ hai trước kỷ nguyên Thiên Chúa giáo, niên hiệu nguyên thọ, đời vua Ái Đế nhà Hán Trung Quốc. Khổng Tử sinh trước vị Giê-su 551 năm, khớp với thuyết của sư Tổ Hoàng Tán : Đức Phật giáng sinh trước ngài Khổng Tử 477 năm. Cộng được : (477-1+551)= 1027 năm.

Người Anh lúc đó cai trị Ấn Độ có đào được tấm bia của Vua A-Dục khắc về niên đại Phật Đản, theo trên tấm bia này thì Phật giáng sinh lại là năm Bính Thân, tính đến năm 2003 là 2567 năm. Căn cứ trên các tư liệu nêu trên và các dữ kiện khác do đó trong đại lễ kỷ niệm Phật Giáo thế giới tại Tích Lan năm 1956 mới quyết định lấy ngày trăng tròn 15 tháng tư Âm Lịch làm ngày kỷ niệm Đức Phật giáng sinh cho cả thế giới.

Tuy nhiên, ở những nước có Phật giáo nhưng không có Âm Lịch thì người ta theo dương lịch mà nói : “Phật giáng sinh ngày trăng tròn “ trong tháng năm dương lịch hằng năm cứ luôn luôn xê dịch : trong 100 năm chỉ có 4 năm là ngày 15 tháng 5 trăng tròn mà thôi. mặc dầu vậy, nhưng ngày trang tròn của tháng tư Âm Lịch lúc nào cũng rơi vào tháng 5 dương lịch. Nước ta và những nước theo Âm Lịch thì xưa nay vẫn tính năm, Phật sinh năm nào thì kể ngay năm ấy là một.

Muốn xác định được ngày đại lễ Phật Đản trước hết phải tìm những điều ghi trong các kinh sách nói về lịch sử Phật tổ cả Bắc Tông lẫn Nam Tông (về ngày Phật Đản kinh sách Nam Tông nói rất đơn giản chi qui gọn một câu “ngày trăng tròn” mà thôi). đem đọ với giữa 2 thứ lịch Ấn Độ và Trung Quốc mà tra cứu thì mới đạt được yêu cầu mong muốn.

Ấn Độ từ xưa vẫn có 4 thứ lịch : lịch Sóc vọng, lịch Mặt trời, lịch Địa cầu, lịch Ngôi sao. Trung Quốc cũng có 4 thứ lịch : lịch nhà Hạ, (chính kiến dần) lịch nhà Thượng hay nhà Ấn (chinh kiến sửu), lịch nhà Chu, (chính kiến tý), lịch nhà Tần (chính kiến hợi). Bốn thứ lịch này đều là Âm lịch. Lịch nhà Hạ vẫn hiện hành từ xưa đến nay, có thể gọi là âm dương lịch, vì nội dung đối chiếu cả các ngày tháng về dương lịch.

Nay chỉ cần dùng 2 thứ lịch : Sóc vọng của Ấn Độ và Hạ lịch (ta thường gọi là nông lịch) của Trung Quốc mà xác định ngày lễ Phật Đản, vì 2 lịch này đều tính theo độ số chu toàn của sao Thái Âm xoay quanh trái đất mà làm lịch. Mỗi nguyệt chu là 19 năm, cũng mỗi năm 12 tháng, có tháng đủ, có tháng thiều và tháng nhuận bù trừ vào nhău, mặc dù ngày tháng sáp đạt có chênh lệch mỗi năm đều khác nhău.

Mỗi tháng của lịch Ấn Độ đều muộn hớn lịch Trung Quốc một tháng rưỡi. Ngày trăng tròn của lịch Ấn Độ thì đạt vào ngàycuối cùng của mỗi tháng, chứ không phải giữa tháng như lịch Trung Quốc. Các ngày 30 trong mỗi tháng của lịch Ấn Độ đều trùng hợp với ngày 15 trong mỗi tháng của lịch Trung Quôc, như thế ngày trăng tròn của lịch Ấn Độ tức là ngày trăng tròn của lịch Trung Quốc vậy.

Chỉ có một điều khác nhău giữa 2 lịch nhưng không ảnh hưởng sai trái với ngày trăng tròn. Nghĩa là lịch Trung Quốc một năm chia thành 4 mùa : Xuân, Hạ, Thu, Đông, lấy 12 con giáp Tý, Sửu, Dần, Mão…..đạt tên cho 12 tháng. Lịch Ấn Độ thì chia một năm làm 3 mùa : Xuân, Hạ, Đông (mỗi mùa 4 tháng) không có mùa Thu, lấy tên 12 ngôi sao đặt cho 12 tháng.

Trên đây tôi sưu tầm biên soạn để chứng minh tại sao ngáy Phật Đản lại có sự thay đổi từ ngày 8 tháng 4 ra ngày 15 tháng 4 âm lịch, và xác định ngày Phật Đản là ngày trăng tròn. Đây cũng là ngày rất trọng đại đối với người Phật Tử chúng ta cần nghiên cứu tìm hiểu để am tường về bối cảnh lịch sử của Đức Bổn Sư .Tôi hy vọng đã góp một phần sự hiểu biết nông cạn của mình vào việc hoằng dương chánh pháp. Nếu qui chư Tôn Đức Tăng, Ni hoăïc các vị thiện trí thức, có những dữ kiện nào chính xác hơn xin chỉ giáo và có những gì thiếu sót kính xin quí ngài niệm tình thứ lỗi.

Nguồn: ÐPNN

Wonderful! (2)

Tìm hiểu Ý NGHĨA Lễ tắm Phật

Theo lịch sử ghi nhận thì Đức Phật đản sanh ở thành Ca Tỳ La Vệ, thành đạo ởBồ Đề Đạo Tràng, thuyết pháp ở thành Ba La Nại và Ngài nhập diệt ở Câu Thi Náa. Phật giáo Nguyên thủy cũng xác định cuộc đời của Đức Phật nhưvậy.

 Tuy nhiên, tinh thần Phật giáo Đại thừa nhìn về Đức Phật không đơn giản nhưthế. Thật vậy, với tầm nhìn sâu sắc, Phật giáo Đại thừa không chỉ thấy Phật là con người trọn lành như lịch sử đã ghi nhận, mà còn triển khai tính cách siêu tuyệt của Đấng Đại Đạo Sư với quan niệm tam thân Phật: sanh thân, Báo thân và Pháp thân. Ngoài sanh thân như bao nhiêu người trên thế gian, Đức Phật vượt trội hơn mọi người, làm Thầy của Trời người vì Ngài còn tạo tác được một Báo thân viên mãn. Đó là thân phướcđức trọn vẹn và trí tuệ vô song của Phật mới đóng vai trò quan trọng trong việc giáo hóa độ sanh.

 Trong hệ thống tư tưởng Đại thừa, kinh Hoa Nghiêm còn hướng tầm nhìn về Phật cao hơn nữa. Dưới nhãn quan Hoa Nghiêm, tri thức và đạo đức của Phật chẳng những là tấm gương kiểu mẫu cho một số người noi theo, mà quan trọng hơn nữa là cả một xã hội đương thời phải nương theo tri thức vàđạo đức của Bậc Toàn giác để hình thành một xã hội tốt đẹp, văn minh, gọi là Tịnh độ. Tịnh độ của Phật, nói đơn giản là một nước mà ở đó chỉcó con người tài đức và xã hội trong sáng hoàn toàn. Đó là tinh thầnĐại thừa đã nâng con người và xã hội lên mức lý tưởng như vậy và biến lý tưởng thành hiện thực.

 Trong ngày lễ Phật đản, một trong những nghi thức kỷ niệm mà các chùa đều tổchức là lễ tắm Phật. Làm lễ tắm Phật, Tăng Ni Phật tử thường đọc bài chú Tắm Phật như sau :

Ngã kim quán mộc chư Như Lai

Tịnh trí trang nghiêm công đức tụ

Ngũ trược chúng sanh lịnh ly cấu

Đồng chứng Như Lai tịnh Pháp thân

Tỳ Gia thành lý vị tằng sanh

Sa La thọ gian vị tằng diệt

Bất sanh bất diệt lão Cồ Đàm

Nhãn trung khán kiến trùng thêm tiết

Kim triêu chính thị tứ ngoạt bát

Tịnh Phạn vương cung sanh Tất Đạt

Cửu long phúng thủy thiên ngoại lai

Bỗng túc Liên Hoa tùng địa phát

Án mâu ni, mâu ni, tam mâu ni, tát phạ ha.

 Bốn câu đầu của bài kệ có nghĩa là chúng ta tắm gội các Đức Như Lai để làm cho thân tâm của chính chúng ta được trong sạch và nhờ đó mới tích tụ được công đức. Tại sao tắm Đức Như Lai mà lại làm cho chúng ta được trong sạch? Đó là ý quan trọng mà tinh thần Đại thừa muốn khai mở.

 Thật vậy, dưới kiến giải của Đại thừa, Như Lai không phải là bức tượng gỗtrên bàn thờ, vì thế chúng ta không tắm tượng Như Lai ấy; hay nói đúng hơn, chúng ta nương theo hình thức tắm tượng Như Lai để nhắm đến mục tiêu quan trọng hơn, đó là gội rửa chính bản thân chúng ta cho thanh tịnh.

Và trong hệ thống tư tưởng Đại thừa, kinh Hoa Nghiêm được coi là đỉnh caođã có cái nhìn phóng khoáng đến vô cùng, theo đó Đức Như Lai mà chúng ta cần quan tâm đến chính là những người hiện hữu tham dự lễ tắm Phật, họ đang phát tâm Bồ đề hướng về Phật. Hướng tâm đến Phật nghĩa là hướngđến bậc thánh thiện trọn lành, thì lực thanh tịnh trọn lành ấy sẽ tácđộng như một màng lọc làm cho tâm họ lắng yên, xa rời những thứ nhơcấu, triền phược và trở thành trong sạch. Thân tâm có thanh tịnh thì công đức mới tích tụ. Thân tâm ô uế thì không thể nào tiếp nhận được những làn sóng thánh thiện của Phật truyền đến, tất nhiên không thể tu tạo được công đức.

 Theo Phật dạy thì trên bản thể, chúng ta và Phật đồng nhau, không khác. Nhưng vì chúng ta mê muội để cho bụi bặm phiền não nhiễm ô bám vào dàyđặc, nên không thể tu tạo được công đức hoặc làm cho công đức tiêu tan, ta mới trở thành phàm phu khổ đau. Ý thức như vậy, bước theo dấu chân Phật, chúng ta phải tẩy rửa bụi bặm trần lao, trong sạch hóa thân tâm, từ đó phát triển công đức đầy đủ để chứng được thân chân thật giống như Đức Như Lai, gọi là Pháp thân.

 Lễ tắm Phật đã thấm sâu vào sinh hoạt tín ngưỡng của nhân gian, nhưng nhiều người chưa hiểu được yếu nghĩa của bài kệ trên. Tuy nhiên, với tinh thần kính trọng Phật cao độ, nên thực tế chúng ta thấy sau buổi lễtắm Phật, nhiều người thường chia nhau nước tắm Phật để uống, hoặc đổnước lên người khác. Tục lệ này ngày nay còn được người Thái Lan tôn trọng qua lễ hội tạt nước vô người khác như lời cầu mong cho mọi người gội sạch được bụi bặm phiền não của cuộc đời, thân tâm được mát mẻ, an vui.

Đoạn thứ hai của bài kệ nhằm nhắc nhở chúng ta ý thức rằng Đức Phật thực không Đản sanh ở thành Ca Tỳ La Vệ và Ngài cũng chưa từng nhập diệt ởSa La song thọ. Đức Phật bất sanh bất diệt ấy vẫn tồn tại miên viễn từxa xưa cho đến ngày nay và hằng hữu mãi đến ngàn sau.

Nói như vậy không có nghĩa là phủ nhận hiện tượng lịch sử về cuộc đời của sanh thân Phật Thích Ca đã hiện hữu trên đất Ấn Độ. Yếu nghĩa quan trọng mà tinh thần Đại thừa muốn nhấn mạnh chính là nhắc nhở chúng ta không nên chấp chặt vào hình thức, dù đó là hình thức của đạo. Thật vậy, bài kệ trên phủ nhận hình thức đến mức nói rằng nếu thấy Phật sanhở Ca Tỳ La Vệ và nhập diệt dưới cây Sa la, tưởng Phật hạn hẹp như vậy làm tâm ta sẽ có thêm vấn đề suy nghĩ theo vọng thức, nên bị vô minh ngăn che, phiền não nổi dậy mà khởi tâm thương tiếc, khóc than là không còn Phật nữa.

 Nhìn thấy hình tượng Phật nhân lễ kỷ niệm Phật đản sanh ngày mùng 8 tháng 4, chúng ta liền hình dung Đức Phật ra đời ở cung vua Tịnh Phạn, có 9 con rồng phun nước, có 7 đóa hoa sen nổi lên đỡ chân Phật và theo thời gian, Phật lớn tuổi dần, rồi nhập diệt ở cây Sa la. Nghĩ nhớ về Phật như vậy thì theo tinh thần Đại thừa chẳng khác gì chúng ta coi trọng hiện tượng sanh diệt, chỉ làm ta thêm phiền não, không được thanh tịnh ví như cảm giác bị xốn xang khó chịu khi hạt bụi rơi vào mắt ta.

 Dưới kiến giải của Đại thừa, Đức Phật không sanh cũng không diệt ở cuộc đời này, còn hiện tượng sanh diệt trên cuộc đời là Ngài tùy duyên giáo hóa chúng sanh mà có, không phải thực.

Thâm nhập tinh thần này, việc quan trọng nhất của người tu hành là làm cho thân tâm của chính mình được thanh tịnh và chứng được quả vị Như Lai không sanh diệt đồng với Phật.

 Vì vậy, đừng tưởng có Phật sanh diệt làm chúng ta kẹt với con người hữu hạn mà không bao giờ được giải thoát. Đừng chấp vào hình thức lễ nghi quá nhiều mà kẹt vào hiện tượng giới và bị những việc không cần thiết bao vây, ràng buộc, thì không phát triển tâm linh được và cũng đánh mất tánh giải thoát của đạo Phật.

 Cần ý thức những hình thức sinh hoạt của Phật giáo là phương tiện nhằm giúp cho ta và người thăng tiến Bồ đề, phát huy chơn tâm thanh tịnh, sáng suốt và hành động lợi ích cho đời mà chúng ta vẫn an trụ tự tại giải thoát.

Nhận chân và áp dụng được yếu nghĩa của bài kệ tắm Phật trong cuộc sống tu hành, đạt được kết quả lợi lạc cho bản thân và mọi người. Đó là món quà vô giá mà Tăng Ni Phật tử chúng ta dâng lên cúng dường Đức Từ phụ nhân mùa Đản sanh 

Tượng Vua sám hối

Năm 2006, nhân dịp UNESCO công nhận lễ Phật Đản là lễ hội tôn giáo thế giới, nhiều công trình văn hóa Phật giáo đặc sắc khắp châu Á được nhắc đến, trong đó có pho tượng Vua sám hối độc nhất ở Việt Nam, với tạo hình độc đáo.

Đó là tượng tạc nhà vua mặc triều phục đang quỳ, hai bàn tay vua cung kính mở rộng để trên mặt phẳng, tương xứng với thân vua đang trong tư thế cúi lạy, mang trên lưng một pho tượng Phật cao lớn ngồi trên tòa sen.

Tương truyền tượng này do chính vua Lê Hy Tông sai tạc để tỏ lòng sám hối của mình, sau sự kiện thiền sư Tông Diễn, thuộc phái Tào Động đời thứ 37, vào kinh dâng ngọc khai thị. Theo nhiều nhà nghiên cứu, khoảng năm 1678, vua Lê Hy Tông có lệnh buộc tăng ni phải lui về chốn núi rừng, thôn xóm vắng vẻ để hành đạo, chứ không được ở kinh đô Thăng Long nữa.

Nghe tin này, thiền sư Tông Diễn, bấy giờ đã đắc pháp ở chùa Vọng Lão trên Yên Tử, đã xuống núi đến kinh thành, xin yết kiến nhà vua để dâng một hộp ngọc. Khi được triệu vào cung, dâng hộp lên thì bên trong chỉ có một tờ biểu, kể rõ lợi ích của việc ứng dụng Phật pháp vào chính sự, nhằm đưa đến thái bình thịnh trị, cứu đời an dân như đã thấy ở đời Lý – Trần.

Lợi ích này rõ ràng và tỏa sáng như một viên ngọc quý, tuy vô hình nhưng không bị thời gian và lịch sử hủy hoại. Vua đọc xong bèn thỉnh thiền sư đến tham vấn, hỏi đạo. Được thiền sư giải đáp trôi chảy và nêu lên những báo ứng không tránh khỏi của tội hủy báng, ngăn trở hoặc bài xích Phật pháp, vua Lê Hy Tông tỉnh ngộ sai tạc tượng sám hối trên.

Hiện pho tượng này còn đặt tại chùa Hòe Nhai (tức Hồng Phúc tự) là nơi thiền sư Tông Diễn cuối đời đã về hoằng pháp ở đó và cho khắc 2 bộ kinh tối thượng là Hoa nghiêm và Pháp hoa trước khi sư thị tịnh vào năm Kỷ Sửu 1709.

Ngày nay, chùa tọa lạc số 19 Hàng Than, quận Ba Đình, Hà Nội… (Giao Hưởng, Thanh Niên, Tượng Vua sám hối độc đáo nhất Việt Nam)

Như thế, vua Lê Hy Tông đã kịp thời sám hối, khi giác ngộ trọng đạo, lấy đời quy theo đạo, thay vì lấy đạo quy theo đời, phục vụ thể chế.

ST.

PHẬT ĐẢN SANH

Thiện Phúc

Vào năm 563 trước Tây lịch, một cậu bé được sanh ra trong một hoàng tộc tại miền Bắc Ấn Độ. Hoàng tử này trưởng thành trong giàu sang xa xỉ, nhưng sớm nhận ra tiện nghi vật chất và sự an toàn trên thế gian không đem lại hạnh phúc thật sự. Ngài động lòng trắc ẩn sâu xa trước hoàn cảnh khổ đau quanh Ngài, chính vì vậy mà Ngài nhất định tìm cho ra chìa khóa đưa đến  hạnh phúc cho nhân loại. Vào năm 29 tuổi Ngài rời bỏ vợ đẹp con ngoan và cung vàng điện ngọc để cất bước lên đường học đạo với những bậc thầy nổi tiếng đương thời. Những vị thầy này dạy Ngài rất nhiều nhưng không vị nào thật sự hiểu biết nguồn cội của khổ đau phiền não của nhân loại và làm cách nào để vượt thoát khỏi những thứ đó. Cuối cùng sau sáu năm tu học và hành thiền, Ngài liễu ngộ qua kinh nghiệm tận diệt vô minh và thành đạt giác ngộ. Từ ngày đó người ta gọi Ngài là Phật, bậc Chánh Đẳng Chánh Giác. Trong 45 năm sau đó Ngài chu du khắp miền Bắc Ấn để dạy người những gì mà Ngài đã chứng ngộ. Lòng từ bi và hạnh nhẫn nhục của Ngài quả thật kỳ diệu và hàng vạn người đã theo Ngài, trở thành tín đồ Phật giáo. Đến năm Ngài 80 tuổi, dù xác thân già yếu bệnh hoạn, nhưng lúc nào Ngài cũng hạnh phúc và an vui, cuối cùng Ngài nhập Niết Bàn vào năm 80 tuổi. Lìa bỏ gia đình không phải là chuyện dễ dàng cho Đức Phật. Sau một thời gian dài đắn đo suy nghĩ Ngài đã quyết định lìa bỏ gia đình. Có hai sự  lựa chọn, một là hiến thân Ngài cho gia đình, hai là cho toàn thể thế gian. Sau cùng, lòng từ bi vô lượng của Ngài đã khiến Ngài tự cống hiến đời mình cho thế gian. Và mãi cho đến nay cả thế giới vẫn còn thọ hưởng những lợi ích từ sự hy sinh của Ngài. Đây có lẽ là sự hy sinh có nhiều ý nghĩa hơn bao giờ hết.

Hiện nay vẫn còn nhiều bàn cãi về năm sanh chính xác của Đức Phật; tuy nhiên ý kiến của phần đông chọn năm 623 trước Tây Lịch. Ngày Phật đản sanh là ngày trăng tròn tháng 4. đó là một ngày tuyệt đẹp. Tiết trời trong sạch, gió mát thoang thoảng. Trong vườn trăm hoa đua nở, tỏa hương ngào ngạt, chim hót líu lo… tạo thành một cảnh tượng thần tiên ở thế gian để đón chào sự đản sanh của Thái Tử. Theo truyền thuyết Ấn Độ thì lúc đó đất trời rung động, từ trên trời cao tuôn đổ hai dòng nước bạc, một ấm một mát, tắm gội cho thân thể của Thái Tử. Ngày nay các quốc gia theo truyền thống Phật giáo, tổ chức ngày Đại lễ Phật Đản vào khoảng giữa tháng tư âm lịch. Cũng theo truyền thuyết Ấn Độ, ngày Phật Đản sanh đáng tin cậy, có lẽ vào ngày mồng 8 tháng 4; tuy nhiên, tất cả các nước theo Phật giáo lấy ngày trăng tròn tháng tư làm lễ kỷ niệm. Đối với cộng đồng Phật giáo, ngày lễ quan trọng nhất là ngày lễ Phật Đản. Đó là ngày trăng tròn tháng tư. Hằng triệu người trên thế giới cử hành lễ Phật Đản. Ngày này được gọi là ngày Vesak tại xứ Tích Lan, ngày Visakha Puja tại Thái Lan. Vào ngày này, Phật tử tại vài xứ như Trung Hoa, Đại Hàn tham dự vào lễ “Tắm Phật.” Họ rưới nước thơm vào tượng Phật Đản Sanh. Việc này tượng trưng cho thanh tịnh nơi tâm ý và hành động. Chùa viện được trang hoàng bông hoa cờ phướn; trên bàn thờ đầy lễ vật cúng dường. Những bữa cơm chay được dọn ra cho mọi người. Người ta làm lễ phóng sanh. Đây được xem như là ngày thật vui cho mọi người. Theo truyền thống Nguyên Thủy, ngày Phật Đản sanh, là một trong những ngày lễ quan trọng nhất của Phật giáo, vì ngày đó vừa là ngày Đức Phật đản sanh, thành đạo và đạt niết bàn. Theo truyền thống Đại Thừa, ngày rằm tháng tư là ngày mà các nước theo truyền thống Phật giáo tổ chức ngày lễ kỷ niệm Phật Đản sanh, xuất gia, thành đạo và nhập Niết bàn. Lễ Vesak gồm có một thời giảng pháp, một buổi quán niệm về cuộc đời Đức Phật, các cuộc rước xung quanh nơi thờ. Ngoài ra ngày Vesak còn là dịp nhắc nhở chúng ta cố gắng đạt tới Đại giác.

Dù Đức Phật đã nhập diệt, nhưng trên 2.500 năm sau những giáo thuyết của Ngài vẫn còn tế độ  rất nhiều người, gương hạnh của Ngài vẫn còn là nguồn gợi cảm cho nhiều người, và những lời dạy dỗ của Ngài vẫn còn tiếp tục biến đổi nhiều cuộc sống. Chỉ có Đức Phật mới có được oai lực hùng mạnh tồn tại sau nhiều thế kỷ như thế ấy. Đức Phật không bao giờ tự xưng rằng Ngài là một thần linh, là con của thần linh, hay là sứ giả của thần linh.  Ngài chỉ là một con người đã tự cải thiện để trở nên toàn hảo, và Ngài dạy rằng nếu chúng ta noi theo gương lành ấy chính ta cũng có thể trở nên toàn hảo như Ngài. Ngài không bao giờ bảo đệ tử của Ngài thờ phượng Ngài như một thần linh. Ngài cấm chỉ đệ tử Ngài làm như vậy. Ngài bảo đệ tử là Ngài không ban phước cho những ai thờ phượng Ngài hay giáng họa cho ai không thờ phượng Ngài. Ngài bảo Phật tử nên kính trọng Ngài như một vị Thầy. Ngài còn nhắc nhở đệ tử về sau này khi thờ phượng lễ bái tượng Phật là tự nhắc nhở chính mình phải cố gắng tu tập để phát triển lòng yêu thương và sự an lạc với chính mình. Hương của nhang nhắc nhở chúng ta vượt thắng những thói hư tật xấu để đạt đến trí huệ, đèn đốt lên khi lễ bái nhằm nhắc nhở chúng ta đuốc tuệ để thấy rõ rằng thân này rồi sẽ hoại diệt theo luật vô thường. Khi chúng ta lễ lạy Đức Phật là chúng ta lễ lạy những giáo pháp cao thượng mà Ngài đã ban bố cho chúng ta. Đó là cốt tủy của sự thờ phượng lễ bái trong Phật giáo. Nhiều người đã lầm hiểu về sự thờ phượng lễ bái trong Phật giáo, ngay cả những Phật tử thuần thành. Người Phật tử không bao giờ tin rằng Đức Phật là một vị thần linh, thì không có cách chi mà họ có thể tin rằng khối gỗ hay khối kim loại kia là thần linh. Trong Phật giáo, tượng Phật được dùng để tượng trưng cho sự toàn thiện toàn mỹ của nhân loại. Tượng Phật cũng nhắc nhở chúng ta về tầm mức cao cả của con người trong giáo lý nhà Phật, rằng Phật giáo lấy con người làm nòng cốt, chứ không phải là thần linh, rằng chúng ta phải tự phản quang tự kỷ, phải quay cái nhìn vào bên trong để tìm trạng thái toàn hảo trí tuệ, chứ không phải chạy đông chạy tây bên ngoài. Như vậy, không cách chi mà người ta có thể nói rằng Phật tử thờ phượng ngẫu tượng cho được. Kỳ thật, từ xa xưa lắm, con người nguyên thủy tự thấy mình sống trong một thế giới đầy thù nghịch và hiểm họa. Họ lo sợ thú dữ, lo sợ không đủ thức ăn, lo sợ bệnh hoạn và những tai ương hay hiện tượng thiên nhiên như  giông gió, bão tố, núi lửa, sấm sét, vân vân. Họ không cảm thấy an toàn với hoàn cảnh xung quanh và họ không có khả năng giải thích được những hiện tượng ấy, nên họ tạo ra ý tưởng thần linh, nhằm giúp họ cảm thấy thoải mái tiện nghi hơn khi sự việc trôi chảy thuận lợi, cũng như có đủ can đảm vượt qua những lúc lâm nguy, hoặc an ủi khi lâm vào cảnh bất hạnh, lại cho rằng  thượng đế đã sắp đặt an bài như vậy. Từ thế hệ này qua thế hệ khác, người ta tiếp tục niềm tin nơi “thượng đế” từ  cha anh mình mà không cần phải đắn đo suy nghĩ. Có người cho rằng họ tin nơi thượng đế vì thượng đế đáp ứng những thỉnh nguyện của họ mỗi khi họ lo âu sợ hãi. Có người cho rằng họ tin nơi thượng đế vì cha mẹ ông bà họ tin nơi thượng đế.

 Buddha’s Birth Day

In the year 563 B.C. a baby was born into a royal family in northern India. He grew up in wealth and luxury but soon found that worldly comfort and security do not guarantee real happiness. He was deeply moved by the suffering he saw all around, so He resolved to find the key to human happiness. When he was 29 he left his wife and child and his Royal Palace and set off to sit at the feet of the great religious teachers of the day to learn from them. They taught him much but none really knew the cause of human sufferings and afflictions and how it could be overcome. Eventually, after six years study and meditation he had an experience in which all ignorance fell away and he suddenly understood. From that day onwards, he was called the Buddha, the Awakened One. He lived for another 45 years in which time he traveled all over northern India teaching others what he had discovered. His compassion and patience were legendary and he made hundreds of thousands of followers. In his eightieth year, old and sick, but still happy and at peace, he finally passed away into nirvana. It couldn’t have been an easy thing for the Buddha to leave his family. He must have worried and hesitated for a long time before he finally left. There were two choices, dedicating himself to his family or dedicating himself to the whole world. In the end, his great compassion made him give himself to the whole world. And the whole world still benefits from his sacrifice. This was perhaps the most significant sacrifice ever made.

Nowadays, there are still some discussions over the exact year of the Buddha’s birth; however, the majority of opinions favor 623 B.C. The Buddha’s birthday  was the day of the full moon in May. It was a beautiful day. The weather was nice and a gentle breeze was blowing. All the flowers in the Lumbini Park were blooming, emitting fragrant scents, and all the birds were singing molodious songs. Together, they seemed to have created a fairy land on earth to celebrate the birth of the Prince, a coming Buddha. According to the Indian legendaries, at that time, the earth shook, and from the sky, two silvery currents of pure water gushed down, one was warm and the other cool, which bathed the body of the Prince. Nowadays, countries with Buddhist tradition usually celebrate the Buddha’s Birthday around the middle of the fourth month of the Lunar Year. Also according to Indian legends, the more reliable Buddha’s Birth Day, perhaps on the 4th month, 8Th day; however, all Buddhist countries obseve the Full Moon Day of the Lunar month of Vaisakha (April-May) as Buddha Birth Day Anniversary. For the Buddhist community, the most important event of the year is the celebration of the birth of the Buddha. It falls on the full-moon day in the fourth lunar month (in May of the Solar Calendar). This occasion is observed by millions of Buddhists throughout the world. It is called Vesak in Sri Lanka, Visakha Puja in Thailand. On this day, Buddhists in some countries like China and Korea would take part in the ceremonial bathing of the Buddha. They pour ladles of water scented with flower petals over a statue of the baby Buddha. This symbolizes purifying their thoughts and actions. The temple are elegantly decorated with flowers and banners; the altars are full of offerings. Vegetarian meals are provided for all. Captive animals, such as birds and turtles, are set free from their cages. This is a very joyous day for everyone. According to the Theravada tradition, the Buddha’s Birth Day, perhaps on the 4th  month, 8Th day; however, all Buddhist countries observe the Full Moon Day of the Lunar month of Vaisakha (April-May) as Buddha Birth Day Anniversary. This is one of the major festivals of Buddhism because most Buddhist countries celebrate the day on which the Buddha was born, attained awakening, and passed into nirvana. According to the Mahayana tradition, the month corresponding to April-May, on the Full Moon day of which is celebrated the Birth, Renunciation, Enlightenment and Parinirvana of the Buddha. The Vesak celebration consists of the presentation of the teaching, contemplation of the life of Buddha, the process around the secred sites. Furthermore, Vesak festival goes beyond mere hirtorical commemoration; it is a reminder for each of us to strive to become enlightened.

Even though the Buddha is dead but 2,500 years later his teachings still help and save a lot of people, his example still inspires people, his words still continue to change lives. Only a Buddha could have such power centuries after his death. The Buddha did not claim that he was a god, the child of god or even the messenger from a god. He was simply a man who perfected himself and taught that if we followed his example, we could perfect ourselves also. He never asked his followers to worship him as a god. In fact, He prohibited his followers to praise him as a god. He told his followers that he could not give favors to those who worship him with personal expectations or calamities to those who don’t worship him. He asked his followers to respect him as students respect their teacher. He also reminded his followers to worship a statue of the Buddha to remind ourselves to try to develop peace and love within ourselves. The perfume of incense reminds us of the pervading influence of virtue, the lamp reminds us of the light of knowledge and the followers which soon fade and die, remind us of impermanence. When we bow, we express our gratitude to the Buddha for what his teachings have given us. This is the core nature of Buddhist worship. A lot of people have misunderstood the meaning of “worship” in Buddhism, even sincere Buddhists. Buddhists do not believe that the Buddha is a god, so in no way they could possibly believe that a piece of wood or metal is a god. In Buddhism, the statue of the Buddha is used to symbolize human perfection. The statue of the Buddha also reminds us of the human dimension in Buddhist teaching, the fact that Buddhism is man-centered, not god-centered, that we must look within not without to find perfection and understanding. So in no way one can say that Buddhists worship god or idols. In fact, a long time ago, when primitive man found himself in a dangerous and hostile situations, the fear of wild animals, of not being able to find enough food, of diseases, and of natural calamities or phenomena such as storms, hurricanes, volcanoes, thunder, and lightning, etc. He found no security in his surroundings and he had no ability to explain those phenomena, therefore, he created the idea of gods in order to give him comfort in good times, courage in times of danger and consolation when things went wrong. They believed that god arranged everything. Generations after generations, man continues to follow his ancestors in a so-called “faith in god” without any further thinkings. Some says they in believe in god because god responds to their prayers when they feel fear or frustration.  Some say they believe in god because their parents and grandparents believed in god.

Nguồn: thuvienhoasen

Chuyển đến trang:  1  2  3  4  5  6  7