ĐẠT LAI LẠT MA 3: LỢI ÍCH CỦA TỪ BI

Recent Pages:  1,  2,  3,  4,  5,  6,

 CON ĐƯỜNG ĐƯA ĐẾN HẠNH PHÚC 

ĐỨC ĐẠT-LAI LẠT-MA
Bản gốc tiếng Anh: The compassion life – NXB: Wisdom Publications, Boston, 2001.
Bản tiếng Pháp: Les voies spirituelles du Bonheur – NXB: Presses du Châtelet, Paris, 2002
Hoang Phong Việt dịch

1
LỢI ÍCH CỦA TỪ BI

Hạnh phúc và Đạo Pháp

Kinh nghiệm sống của tôi chẳng có gì là phi thường, trái lại rất bình dị và thấm đượm tình người, đơn giản chỉ có thế thôi. Nhờ Phật giáo, tôi biết tu tập để phát động lòng từ bi và đem lại hơi ấm cho tim tôi, sự tu tập ấy tỏ ra khá hữu ích cho tôi trong cuộc sống thường nhật. Quê quán của tôi là một tỉnh lỵ Tây tạng mang tên Amdo, người dân nơi đây có tiếng  hay cáu kỉnh – đến độ mỗi khi có một người Tây tạng nào nổi xung thì thường bị gán cho là dân gốc Amdo ! Nhưng hôm nay, nếu đem so sánh tánh khí của tôi với lúc tôi còn mười lăm tuổi, thì quả thật là khác biệt rất nhiều. Ngày nay, cảm thấy bực dọc đối với tôi là chuyện hết sức hiếm hoi, và nếu như chuyện ấy có xảy ra đi nữa thì cũng chỉ thoáng qua. Sự tuyệt vời này giúp cho tôi luôn luôn hân hoan trong cuộc sống, chẳng qua đấy cũng là nhờ tôi biết tu học và luyện tập.

Trong kiếp sống này, tôi phải bỏ trốn quê hương và được sống còn đến hôm nay là hoàn toàn nhờ vào lòng nhân từ của kẻ khác. Tôi đã mất mẹ, các vị thầy và các vị giám hộ của tôi cũng vậy, trong số họ hầu hết đã qua đời. Mỗi khi nghĩ đến những thảm trạng đó, tất nhiên là tôi đau buồn. Nhưng những đau buồn đó không làm cho tôi điên đảo, vì những gương mặt thân yêu của những ngày xưa dù không còn nữa, nhưng những gương mặt mới lại hiện đến với tôi. Nhờ thế mà tôi vẫn hạnh phúc và giữ được tâm thức an bình. Theo tôi, thái độ biết đặt mọi thử thách trong một bối cảnh bao quát hơn là một đức tính kỳ diệu của bản tính con người. Theo quan điểm của tôi, sự kỳ diệu ấy bắt nguồn từ lòng từ bi và tình thương yêu.

Bản chất tự nhiên của con người

Một số bạn bè nói với tôi rằng họ biết rõ những phẩm tính của tình thương và lòng từ bi, nhưng nếu phải đem ra ứng dụng vào thực tế thì quả thật họ không thể nào thực hiện được. Đối với họ, thế giới của chúng ta không phải là nơi mà những phẩm tính tuyệt vời ấy có thể đem đến bất cứ một ảnh hưởng hay một sức mạnh nào ; sự tức giận và hận thù đã ăn quá sâu vào lòng chúng ta từ lâu và sẽ còn khống chế nhân loại cho đến muôn đời.

Tôi không chia xẻ với họ quan điểm ấy. Chúng ta đây là những con người, và giống người của chúng ta hiện hữu trong hình dạng giống như thế này đã được khoảng chừng hơn một trăm nghìn năm. Tôi nghĩ rằng nếu như tâm thức chúng ta từ trước đến nay từng bị khống chế bởi nóng giận và hận thù, thì dân số thế giới lẽ ra phải giảm xuống thì mới đúng. Nhưng đâu phải thế ; dù chiến tranh triền miên, nhưng hành tinh này chưa bao giờ lại đông đảo đến thế. Theo quan điểm của tôi, sự kiện ấy chứng minh cho thấy tuy nóng giận và hung bạo lúc nào cũng xảy ra trên thế giới, nhưng tình thương và từ bi vẫn luôn luôn trội hơn nhiều. Nếu các cơ quan « truyền thông » thường xuyên đề cập đến những tin tức không hay, kể cả việc liên miên thông báo các thảm trạng, đấy chẳng qua vì các hành vi từ bi đã trở thành quá tự nhiên trong đời sống thường nhật, vì thế mà người ta không còn để ý đến nữa.

Chỉ cần quan sát bản chất con người trên một khía cạnh thật sơ đẳng, ta cũng sẽ nhận thấy bản chất đó mang đức tính hiền hoà nhiều hơn là hung hãn. Hãy lấy thí dụ trường hợp của xúc vật : những con thú hiền lành có cơ thể thích nghi với bản tính hiền lành, trong khi cơ thể của thú săn mồi lại khác hẳn, phù hợp với bản chất săn mồi của chúng. Con nai và con hổ có hình thù thật khác nhau. Khi đem so sánh cấu tạo cơ thể của ta và của chúng, ta sẽ thấy ta giống con nai hay con thỏ hơn là giống con hổ. Có phảỉ là răng của ta tương tợ với răng của con thỏ hay chăng ? Chắc chắn là ta không có răng nhọn như răng nanh của con hổ. Cả móng tay và móng chân nữa, cũng thế. Tôi không thể búng móng tay để gây ra thương tích cho một con chuột. Quả thật, nhờ vào trí thông minh, con người biết phát minh và sử dụng các loại dụng cụ và tìm ra nhiều phương cách để nâng cao sự sống, nhưng trên mặt cấu tạo cơ thể, đúng hơn con người phải thuộc vào loại sinh vật hiền lành.

Thật vậy, chúng ta là những sinh vật có lối sống xã hội. Thiếu tình thân ái, thiếu một nụ cười, sự sống quả là đáng buồn ; cô đơn là một thứ gì không chịu đựng nổi. Sự tương liên giữa con người là một quy luật tự nhiên – tức trong chiều hướng ta cần phải lệ thuộc vào kẻ khác để sống còn. Trong một số trường hợp, chỉ vì một vần đề nội tâm nào đó, ta nhìn những người chung quanh với đầy hận thù, và trong hoàn cảnh như thế ta sẽ không thể nào tìm thấy hạnh phúc và giữ cho tâm thức được an bình ? Qua những kinh nghiệm tự nhiên và sơ đẳng ta cũng có thể nhận thấy sự tương liên – trao đổi tình thương giữa con người với nhau – là chìa khoá của hạnh phúc.

Sự kiện đó càng trở nên rõ rệt hơn khi ta nhìn vào sự sinh hoạt cơ bản của ta. Muốn vượt lên trên mức độ thấp nhất là sự sống còn, ta cũng cần có một mái nhà, thức ăn, bạn đồng hành, thân hữu, một nguồn tài lợi nào đó, lòng quý mến của kẻ khác, v.v. Ta đâu có thể tự cung phụng lấy một mình những nhu cầu trên đây, ta bắt buộc phải dựa vào kẻ khác. Hãy tưởng tượng một người nào đó muốn sống một mình trong một nơi hẻo lánh không người ở : dù cho can trường đến đâu, sức khoẻ tốt đến đâu và trình độ học vấn cao cách mấy, người này cũng không thể tự hào cho mình đã đạt được hạnh phúc và cuộc sống sẽ được nẩy nở toàn vẹn trong những điều kiện cô đơn như thế. Thí dụ một người sống giữa chốn rừng sâu, trong một vùng bảo tồn thiên nhiên ở Phi châu chẳng hạn, một nơi chỉ toàn là thú vật, với trí thông minh và sự khôn ngoan hắn có thể trở thành một vị chúa tể rừng xanh, nhưng không hơn không kém. Thử hỏi hắn có bạn hữu hay không ? Hắn có cần đến một tên gọi hay không ? Nếu muốn trở thành một vị anh hùng thì hắn có thể thực hiện được không ? Nhất định là không, bởi vì chỉ có cách chung sống với nhiều người khác mới thực hiện được những gì vừa kể mà thôi.

Tuổi trẻ, sức khoẻ và sinh lực đôi khi đem đến cho ta cái cảm giác có thể tự lập, tự cường, giống như ta không cần đến bất cứ kẻ nào khác. Nhưng thật ra đấy chỉ là một ảo giác. Ngay ở cái tuổi tốt đẹp nhất trong cuộc đời, ta vẫn cần có bạn hữu, có phải thế chăng ? Lý do thật đơn giản, chỉ vì ta là con người. Cái sự thực đó lại càng rõ rệt hơn nữa khi về già. Đối với tôi đây, tôi đã sáu mươi ngoài và đã cảm thấy nhiều dấu hiệu già nua. Tôi thấy trên đầu có thêm nhiều tóc bạc, đôi khi đau đầu gối, ngồi xuống và đứng lên khó khăn. Với tuổi tác, ta lại càng lệ thuộc hơn vào sự chăm sóc của kẻ khác : chẳng qua đấy là phần nào thân phận của tất cả chúng ta.

Trên một khía cạnh nào đó, ít nhất ta cũng có thể bảo rằng kẻ khác chính là nguồn gốc đem đến hân hoan, hạnh phúc và giàu có cho ta, tuy vậy những điều đó không phải chỉ là hậu quả đơn giản của sự kiện tương liên giữa ta và kẻ khác trong đời sống thường nhật mà thôi. Trên thực tế, tất cả những những cảm nhận êm ái mà ta hằng ấp ủ, hoặc ta mong muốn sẽ thực hiện được, đều đòi hỏi phải có sự tương giao. Đấy là những gì thật hiển nhiên, và đồng thời cũng phù hợp với sự tu tập của một người Phật tử, vì kể cả những người đã đạt được các cấp bậc thực hiện thật cao trên đường tu tập cũng vậy, họ vẫn cần đến sự hổ trợ và tương tác lẫn nhau. Thật thế, trong một cấp bậc Giác ngộ hoàn hảo nhất, kể cả lòng tư bi của một vị Phật cũng không thể đương nhiên có thể hiển lộ nếu không có sự tương liên với kẻ khác : tức là những kẻ nhận lảnh những hành vi Giác ngộ ấy.

Ngay trong trường hợp đối với những người chỉ biết tìm cách thoả mãn các quyền lợi hoàn toàn ích kỷ – hạnh phúc, tiện nghi và những đòi hỏi cá nhân, mặc kệ sự an vui của kẻ khác –, tôi vẫn nhất định chủ trương họ cũng phải cần đến kẻ khác. Những hành vi tiêu cực cũng không thể thực hiện được nếu không có kẻ khác làm đối tượng để thực hiện. Thí dụ như muốn gian lận thì cũng phải có kẻ khác cho ta đánh lừa.

Tất cả những biến cố trong sự sống, tất cả lịch sử đều liên hệ đến số phận của kẻ khác, chặt chẽ đến đỗi nếu chỉ có một người đơn chiếc thì đừng nghĩ đến việc thực hiện được bất cứ  một điều gì. Vô số những sinh hoạt hằng ngày của con người, dù tích cực hay tiêu cực, đều không thể thực hiện được khi loại kẻ khác ra bên ngoài. Nhờ có kẻ khác ta mới làm ra đồng tiền, dù cho việc kiếm tiền là mục đích duy nhất của đời ta cũng vậy. Cũng thế, muốn dựng lên một người lừng danh hay muốn hạ bệ một kẻ nào đó, nhưng nếu ta đơn độc chỉ có một mình, thì dù có kêu gào thật to thì cũng chỉ có tiếng vang dội lại mà thôi.

Sự tương liên là một quy luật tự nhiên và căn bản. Quy luật đó không những áp đặt cho những sinh vật tiến hoá sống thành xã hội như chúng ta đây ; mà các loài côn trùng, không tôn giáo, không luật pháp, không giáo dục cũng vậy, cũng nằm chung trong quy luật đó, nếu muốn sống còn chúng phải dựa vào sự nhận biết bẩm sinh giúp cho chúng biết tìm nhau để hợp tác và liên hệ với nhau. Trên một cấp bậc tinh tế và cao nhất, kể cả vật chất cũng tùy thuộc vào sự tương liên. Tất cả mọi hiện tượng, từ hành tinh mà chúng ta đang sống, cho đến các miền đại dương, những tầng mây trên trời, rừng sâu và hoa lá đang bao quanh ta, tất cả đều hiện hữu bằng cách liên đới với những hệ thống năng lực tinh tế. Thiếu sự tương tác thích nghi và cần thiết, tất cả những thứ vừa kể sẽ tan biến và tự hũy hoại.

Nhu cầu về tình thương

Câu hỏi lớn nhất nêu lên trong kinh nghiệm sống của chính ta – dù ý thức hay vô tình – là câu hỏi sau đây : ý nghĩa của sự sống là gì ? Tôi cho rằng mục đích của tất cả chúng ta trong sự sống là được hạnh phúc. Từ lúc chào đời, bất cứ một con người nào cũng tha thiết được hạnh phúc và tìm cách lẩn tránh khổ đau. Không một hoàn cảnh xã hội nào, không một nền giáo dục hay một hệ thống tư tưởng nào có thể làm thay đổi được mục tiêu đó. Chúng ta đều đi tìm sự thỏa mãn, xu hướng đó phát xuất từ nơi sâu kín nhất trong chúng ta. Tôi cũng không hiểu là cả vũ trụ này với vô số những vì sao, hành tinh và thiên hà có hàm chứa một ý nghĩa nào sâu xa hơn nữa hay chăng, nhưng ít ra chúng ta đây, những con người bình dị sinh sống trên địa cầu này, chúng ta đều có trọng trách tự tạo ra cho chúng ta một cuộc sống hạnh phúc.

Chúng ta không phải là những đồ vật sáng chế, cũng không phải đơn thuần chỉ là vật chất ; chúng ta có tình cảm và biết cảm nhận. Nếu như ta chỉ là những thực thể cơ khí, thì các máy móc khác có thể làm nhẹ bớt khổ đau cho ta và làm thỏa mãn các nhu cầu của ta. Nhưng những tiện nghi vật chất không hội đủ điều kiện để thực hiện việc ấy. Không có một vật gì, dù cho đẹp đẽ và quý giá đến đâu đi nữa, cũng không đủ sức giúp cho ta tím thấy cái cảm giác được kẻ khác yêu thương. Chúng ta cần đến một thứ gì đó sâu xa hơn mà tôi gọi đấy là tình yêu mến giữa con người. Nhờ vào tình thương mến đó, hay từ bi cũng thế, tất cả những tiện nghi vật chất mới có thể trở thành những đóng góp mang tính cách xây dựng. Thiếu tình yêu thương giữa con người với nhau, những tiện nghi vật chất đơn thuần không thể nào đem đến thỏa mãn, cũng không thể tạo ra cho ta một mảy may an bình trong tâm thức, hoặc đem đến bất cứ một thứ hạnh phúc nào khác.

Thực vậy, thiếu tình yêu thương giữa con người, ngay cả những tiến bộ vật chất cũng có thể biến thành những khó khăn làm nặng nề thêm cho sự sống. Nguồn gốc và bản chất của của chúng ta chứng minh cho thấy không có một con người nào sinh ra trong cõi đời này mà lại không cần đến tình thương. Ngược lại với chủ trương của một vài trào lưu tư tưởng hiện đại, người ta không thể nào đơn giản hoá con người thành một sinh vật đơn thuần thuần chỉ có vật chất.

Rốt lại, chính tình thương và lòng từ bi đã tạo ra những niềm phúc hạnh quan trọng nhất cho con người, cũng thật dễ hiểu vì đấy là nhu cầu sâu kín nhất của tất cả chúng ta. Nếu một cá nhân nào đó, bất kể là có năng khiếu gì và lanh lợi đến đâu, khi đã rơi vào cảnh cô đơn và bị kẻ khác bỏ quên, con người đó cũng không thể sống còn được. Dù cho ta có cảm thấy thừa sức và hoàn toàn tự cường trong suốt thời kỳ sung mãn của đời ta, nhưng đến khi đau ốm, già nua, cũng như trong khi còn non dại, ta vẫn phải trông cậy vào kẻ khác. Hãy quán xét cẩn thận xem tình thương và từ bi đã từng giúp đỡ cho ta biết bao nhiêu trong cuộc sống của chính ta.

Đối với vấn đề sáng tạo và tiến hoá của vũ trụ, dù cho các truyền thống tôn giáo có chủ trương khác nhau, nhưng tất cả chúng ta đều phải công nhận đã được cha mẹ sinh ra. Nói một cách bao quát hơn, sự tạo tác ra chúng ta không hẳn chỉ là hậu quả của dục tính, vì cha mẹ cũng dự phần quyết định sinh ra con cái. Sự quyết định đó dựa trên trách nhiệm và lòng bác ái – tức cha mẹ chấp nhận bổn phận chăm sóc con cái cho đến lúc biết tự lập. Vì thế ngay từ lúc khởi sự tác tạo ra chúng ta, tình thương yêu giữa cha mẹ đã góp phần trực tiếp vào sự hình thành đó.

Trong những dịp tiếp xúc với các nhà khoa học, nhất là những khảo cứu gia trong các lãnh vực Thần kinh học, tôi đã hiểu được là ngày nay người ta đã chứng minh cho thấy ngay trong lúc mang thai, tình trạng tâm thần của người mẹ – an bình hay dao động – sẽ tạo ra ảnh hưởng rất lớn đối với tình trạng thể chất và tinh thần của hài nhi trong bụng. Vì thế người mẹ phải giữ tâm thức thật an bình và thanh thản, điều ấy thật quan trọng. Sau khi sinh, những tuần lễ đầu tiên cũng giữ một vai trò quyết định cho sự nẩy nở của đứa bé. Người ta nói với tôi rằng một trong các yếu tố then chốt giúp cho bộ não đứa bé phát triển một cách lành mạnh và nhanh chóng là sự nâng niu của người mẹ. Nếu trong thời kỳ quyết định đó, đứa bé bị bỏ lây lất hay bị bỏ quên, không một ai dòm ngó đến nó, hậu quả về tâm lý sẽ rất tai hại.

Tình thương và sự chăm sóc là yếu tố chủ yếu trong suốt tuổi thơ của một con người. Khi một đứa bé sống với một người cởi mở và biết yêu thương, tự nhiên nó sẽ cảm thấy hạnh phúc và được che chở. Ngược lại, nếu làm cho nó phải gánh chịu đau đớn, sự sợ hãi sẽ xâm chiếm lấy nó và tạo ra những hậu quả tai hại cho sự nẩy nở. Ngày nay, rất nhiều trẻ con lớn lên trong các gia đình ly tán. Chúng thiếu hẳn tình thương, và rồi sau này có thể chúng sẽ không còn biết yêu thương cha mẹ nữa, và đồng thời chúng cũng mất hết khả năng yêu thương kẻ khác. Quả thật đấy là điều hết sức đau buồn.

Khi đứa bé lớn lên và đi học, nó cũng phải được thầy cô giúp đỡ. Nếu một người mang trọng trách giáo dục, ngoài bổn phận giáo huấn về kiến thức họ còn phải biết ý thức bổn phận dìu dắt đứa bé bước chân vào đời, làm được như thế thì người ấy mới thực sự là một người đáng tin tưởng và kính trọng, bởi vì những gì mà họ trao cho đứa bé sẽ in đậm trong tâm thức nó và sẽ không bao giờ phai mờ. Trong trường hợp ngược lại, nếu thầy cô không thật sự quan tâm đến tương lai của đứa bé, thì những môn học mà họ giảng dạy sẽ trở thành phụ thuộc và không lưu lại lâu bền trong trí nhớ của đứa bé sau này.

Cũng thế, trong một bịnh viện, nếu được một vị y sĩ tận tình chăm sóc, bịnh nhân sẽ cảm thấy yên tâm. Sự quyết tâm của người y sĩ làm tất cả những gì có thể làm được để chăm sóc cho bịnh nhân đã là một liều thuốc điều trị rồi, dù trên phương diện chuyên môn, người đó có phải là một vị thầy giỏi hay không. Ngược lại, nếu một vị y sĩ lạnh lùng, không tỏ lộ một chút tình người nào cả, lúc nào cũng khô khan, hấp tấp hoặc thiếu sự sốt sắng, thì dù cho vị ấy là một lương y uy tín, chẩn bịnh đúng và chữa trị giỏi đi nữa, người bịnh vẫn lo âu. Dù sao đi nữa, tình trạng tinh thần của người bịnh cũng giữ một vai trò quan trọng và ảnh hưởng rất lớn đến kết quả trị liệu.

Ngay trong sự tiếp xúc thường nhật, nếu một người nào đó biết ăn nói đầm ấm, cuộc đối thoại sẽ thú vị hơn, dù cho chủ đề chẳng có gì là lý thú. Ngược lại, nếu một người ăn nói lạnh lùng hoặc hung hãn, ta sẽ cảm thấy khó chịu và muốn cho câu chuyện sớm chấm dứt. Trước một sự kiện dù tầm thường hay những biến cố thật quan trọng, cảm giác được kẻ khác yêu thương thật cần thiết để đem lại hạnh phúc cho ta.

Gần đây, một nhóm khảo cứu gia Hoa kỳ cho tôi biết là trên quê hương họ con số người mang bịnh tâm thần rất cao, vào khoảng mười hai phần trăm dân số. Hình như những hội chứng trầm cảm không phải là hậu quả của sự thiếu thốn vật chất, mà đúng hơn là những chướng ngại cản trở sự trao đổi và đón nhận tình thương yêu.

Dù cho không hoàn toàn ý thức đi nữa, ta vẫn nhận thấy nhu cầu về tình thương giữa con người đã nằm sẳn trong gien từ lúc mới sinh ra đời. Tình yêu thương đó có thể phát sinh từ một con vật và cũng có thể phát sinh từ một con người mà thói thường ta vẫn xem như kẻ thù, tình thương yêu ấy thu hút một cách tự nhiên tất cả mọi người, từ một đứa bé cho đến những kẻ đã trưởng thành.

Nguồn gốc sâu xa của sự thành công

Chúng ta đây là những con người, chúng ta đều có khả năng tìm thấy hạnh phúc và biết yêu thương, nhưng cũng có những loại tiềm năng có thể biến ta thành một kẻ bất hạnh và nguy hại cho kẻ khác. Những loại tiềm năng như thế đều hàm chứa trong mỗi con người. Muốn được hạnh phúc, cần phải phát huy những khía cạnh tích cực và hữu ích và đồng thời giới hạn những khía cạnh tiêu cực. Những hành vi tiêu cực, chẳng hạn như trộm cắp hay nói dối, đôi khi có vẻ như tạo được thoả mãn tức khắc, nhưng lâu dài sẽ đem đến khổ đau. Các hành vi tích cực, trái lại sẽ luôn luôn đem đến một sức mạnh nội tâm quan trọng. Nhờ vào sức mạnh nội tâm, ta sẽ bớt sợ hãi và tự tin hơn ; nhờ thế ta mới có thể quan tâm đến kẻ khác một cách dễ dàng hơn, có thể vượt qua biên giới của tôn giáo, văn hoá hay bất cứ những khó khăn nào khác. Vì thế thật quan trọng phải quan sát và phân tích cẩn thận những tiềm năng sâu kín trong ta, vì nó có thể tạo ra điều thiện và cả điều xấu.

Tôi gọi thái độ trên đây là cách khơi động tình người. Tôi luôn luôn quan tâm chủ trương tìm hiểu những giá trị căn bản nơi mỗi con người, chẳng hạn như lòng từ bi, quan tâm đến kẻ khác và sự tự nguyện. Dù theo tôn giáo nào, dù hữu thần hay vô thần, nhưng nếu thiếu những giá trị vừa kể ta sẽ không thể nào tìm thấy hạnh phúc được.

Ta thử phân tích những lợi ích của từ bi và tình thương yêu trong đời sống thường nhật xem sao. Chẳng hạn, khi mới thức giậy, ta cảm thấy khoan khoái, tinh thần vui vẻ và thoả mãn, cánh cửa nội tâm sẽ mở rộng giúp ta đưa tay đón lấy một ngày đang hiện ra trước mặt. Trong ngày hôm ấy, nếu như ta có gặp một người mà ta không thích, ta vẫn đủ sức để nói lên một lời thân thiện với kẻ đó. Tiếp theo đấy, biết đâu ta cũng có thể đàm thoại với họ, tuy rằng trước đây ta vẫn xem họ là một người khó thương, để rồi cả hai bên cùng trao đổi với nhau những quan điểm thật ích lợi. Khi ta tạo được một bầu không khí tích cực và thân thiện, sự sợ hãi và bất an tự nhiên sẽ biến mất giữa họ và ta. Đó là phương cách khá dễ để có thêm bạn bè và để nhìn thấy những nụ cười mới mẻ hiện ra với ta.

Nhưng nếu trong một ngày nào đó mà ta cảm thấy bực bội và cáu kỉnh, cánh cửa nội tâm sẽ tự động khép lại trong ta. Với tâm trạng này, dù cho gặp lại một người bạn thân thiết nhất đi nữa, ta vẫn cảm thấy thiếu thoải mái và căng thẳng. Các thí dụ trên đây cho thấy những thái độ bên trong của ta đã nắm giữ vai trò quyết định ảnh hưởng đến những cảm nhận hằng ngày trong cuộc sống. Để có đủ sức mạnh giúp tạo ra những xúc cảm an vui cho chính bản thân ta, cho gia đình và cả tập thể những người chung quanh, ta cần phải ý thức rằng nguồn gốc sâu xa của sức mạnh đó nằm sẳn trong mỗi cá nhân, tức trong mỗi con người chúng ta – ấy là tình thân ái, lòng từ bi và tình người.

Không phải từ bi chỉ đem đến lợi ích trên mặt tâm thức mà còn giúp cho thân xác được khoẻ mạnh. Theo nền y khoa tân tiến ngày nay, và cũng dựa vào kinh nghiệm của bản thân tôi, sự thăng bằng của tâm thức và sức khoẻ luôn luôn đi đôi với nhau. Thật rõ ràng, sự giận dữ và những dao động trong tâm thức làm cho ta dễ ốm đau, ngược lại khi tâm thức an bình và hướng về những điều tích cực, thân xác sẽ khó bị bịnh tật hơn. Điều ấy chứng minh cho thấy phần thân xác là nơi tiếp nhận tình người và cả sự an bình xuất phát từ nơi tâm thức.

Đồng thời tôi cũng tin rằng, khi ta chỉ biết nghĩ duy nhất đến bản thân mình, thì cái nhìn của ta về mọi sự vật chung quanh cũng sẽ trở nên hẹp hòi. Và vì lẽ đó, những buồn phiền nhỏ nhặt cũng hoá thành trọng đại, tạo ra lo sợ và bất an, giống như bị tràn ngập bởi mọi thứ bất hạnh. Ngược lại, khi biết nghĩ đến kẻ khác và tìm cách giúp đỡ họ, sự quán nhận của ta về thực tại sẽ trở nên bao quát hơn. Khi mở rộng tầm nhìn, những vấn đề cá nhân sẽ mất đi tầm quan trọng, và điều đó sẽ làm thay đổi tất cả.

Khi âu lo cho kẻ khác, sức mạnh nội tâm sẽ toả rộng trong ta, dù cho ta đang phải bận tâm đối đầu với những khó khăn hay những vấn đề riêng tư khác. Nhờ vào sức mạnh nội tâm ấy, buồn phiền của riêng ta sẽ trở nên kém quan trọng và không còn ám ảnh ta nữa. Nếu biết vượt lên trên những vấn đề cá nhân để quan tâm đến kẻ khác, ta sẽ vững vàng hơn trên mặt đạo đức, sẽ cảm thấy tin tưởng, can đảm, và an bình hơn. Điều đó chứng minh cho thấy cách thức suy tư đã tạo ra ảnh hưởng quan trọng như thế nào.

Khi ta thật sự hành động vì sự an vui của chúng sinh, quyền lợi và những mong ước cá nhân của ta cũng sẽ theo đó mà thành tựu, giống như những sản phẩm phụ thuộc phát sinh một cách tự nhiên. Trong tập sách « Đại luận về con đường đưa đến Giác ngộ », vị Lạt-ma Tông Khách Ba (Tsongkapa), một vị thầy lừng danh trong thế kỷ XV, đã viết như sau « Khi một người tu tập biết hành động và suy tư thật mạnh về sự an vui của kẻ khác, họ sẽ nhìn thấy những nguyện vọng của mình tự nhiên được thành tựu, giống như những sản phẩm phụ thuộc sinh ra một cách đương nhiên, không cần đến một cố gắng nào cả ». Một số quý vị có lẽ đã từng nghe tôi nói đến điều sau đây, vì tôi vẫn thường nhắc đi nhắc lại điều này, theo một ý nghĩa nào đó, người ta có thể nói rằng những người Bồ-tát, tức những vị tu tập Đạo Pháp bằng từ bi, là những người « ích kỷ một cách hết sức khôn ngoan », trong khi đó chúng ta lại cư xử giống như những người « ích kỷ một cách vô cùng đần độn ». Nếu chỉ biết nghĩ đến chính mình, bất chấp sự thiệt thòi của kẻ khác, chúng ta sẽ không tìm được hạnh phúc và sẽ sống trong bất an.

Nhân ái và yêu thương còn có những lợi ích khác nữa, tuy rằng những lợi ích ấy không dễ cho ta nhận thấy ngay. Tu tập Phật giáo nhắm vào rất nhiều mục đích, một trong những mục ích ấy là được tái sinh thuận lợi trong kiếp sau. Mục đích này chỉ có thể thực hiện được khi nào ta biết tự giữ gìn không làm hại đến kẻ khác và đồng thời biết mở rộng lòng vị tha và nhân từ. Thật là hiển nhiên, trong số sáu giáo pháp Ba-la-mật là bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, thiền định và trí tuệ, người Bồ-tát phải đặt trọng tâm vào sự giúp đỡ và ân cần với những người chung quanh.

Vì thế, yêu thương và hơi ấm trong tim ta là những đức tính sâu kín giúp đem đến thành công trong sự sống, sự thăng tiến trên đường tu tập để đưa đến mục đích tối hậu : sự Giác ngộ. Vì thế từ bi và yêu thương bao giờ cũng quan trọng, từ lúc mới bước chân vào đời, trong giữa cuộc sống hay đến lúc phải nằm xuống. Những đòi hỏi đó và những giá trị đó không giới hạn trong bất cứ một giai đoạn nào, một địa danh nào, một xã hội nào hay một nền văn hoá nhất định nào.

Chúng ta chẳng những cần đến từ bi và tình yêu thương giữa con người với nhau để sống còn, mà những phẩm tính đó còn đem đến cho ta thành công trong cuộc sống. Thái độ ích kỷ, không những sẽ tạo ra nhiều điều bất hạnh cho kẻ khác mà còn ngăn cản không cho ta tìm thấy hạnh phúc mà ta hằng mong ước. Đã đến lúc ta cần phải suy nghĩ về những điều trên đây và chọn lấy một thái độ thích nghi, có đúng vậy hay chăng ? Dù sao đi nữa, đấy cũng là niềm tin của riêng tôi.

3
Lòng Từ Bi bao quát

Tôi tin rằng trong bất cứ một cấp bậc xã hội nào – gia đình, quốc gia hay quốc tế –, chìa khoá của một thế giới hạnh phúc và hài hoà đều liên hệ đến việc thực thi lòng từ bi. Không cần phải gia nhập một tôn giáo nào, cũng không cần phải tôn thờ một hệ tư tưởng đặc biệt nào cả, chỉ cần mỗi cá nhân trong chúng ta biết phát huy những phẩm tính con người. Theo quan điểm của tôi, trau dồi hạnh phúc cá nhân có thể góp phần một cách sâu xa và hữu hiệu để biến cải chung cho cả tập thể nhân loại.

Tất cả chúng ta đều cần đến tình thương, hiểu được điều ấy sẽ giúp ta nhận thấy bất cứ ai ta gặp được dù trong hoàn cảnh nào cũng đều là anh em hay chị em với ta. Dù đấy chỉ là một người mà ta mới gặp lần đầu cũng thế, ngoài quần áo đang mặc trên người và tính tình ra, thì chẳng có một sự khác biệt thật sự nào giữa họ và ta. Vì thế thật hết sức phi lý khi dừng lại trên những khác biệt bên ngoài, trong lúc bản thể của mỗi người trong chúng ta đều như nhau.

Những lợi ích khi biết vượt lên trên sự phân biệt nông cạn đó sẽ càng nổi bật hơn khi ta biết nhìn vào vị trí của ta một cách bao quát hơn trong lãnh vực của hành tinh này. Nhân loại chỉ có một, và hành tinh nhỏ bé này là nơi trú ngụ duy nhất của nhân loại. Để có thể bảo vệ môi trường chung, mỗi người trong chúng ta cần phải cảm thấy sức mạnh của tình yêu thương hướng đến kẻ khác và lòng từ bi toàn cầu. Chỉ có thứ xúc cảm duy nhất đó mới có thể xoá bỏ những quyền lợi ích kỷ kích động con người lường gạt nhau và khai thác lẫn nhau. Một quả tim mở rộng và thành thật đương nhiên sẽ giúp cho ta tự tin vào những khả năng của ta, và ta sẽ không còn e sợ kẻ khác nữa.

Sự cần thiết phải có một không khí cởi mở và hợp tác trên bình diện quốc tế ngày càng khẩn cấp. Vào thời đại của chúng ta, kinh tế không còn giới hạn trong lảnh vực gia đình và kể cả trên bình diện quốc gia. Từng thành phần quốc gia cho đến toàn thể một lục địa đều lệ thuộc chặt chẽ với nhau. Vì thế, nếu muốn phát triển kinh tế của mình, mỗi quốc gia phải quan tâm đến kinh tế của các nước khác. Dù sao đi nữa khi chung cuộc, kinh thế của các nước khác cũng sẽ gây tác động đến chính quốc gia của mình. Để có thể đối đầu với những tình thế đột phát trong thế giới tân tiến ngày nay, bắt buộc ta phải chấp nhận một sự biến cải từ cội rễ cách suy nghĩ và những phản ứng quen thuộc của ta. Càng ngày ta càng thấy rõ hơn là một nền kinh tế muốn tồn tại phải dựa vào trách nhiệm toàn cầu, đúng với ý nghĩa trung thực của nó. Có lẽ chúng ta đều đồng ý với nhau về những điều trên đây, có đúng thế hay chăng ? Đấy không phải đơn thuần là một lý tưởng tôn giáo mang tính cách thiêng liêng hay đạo đức, nhưng đó là thực trạng hiện nay về sự hiện hữu của nhân loại.

Khi biết suy nghĩ sâu xa ta sẽ nhận thấy bất cứ nơi nào trên thế giới này cũng đều cần đến thật nhiều từ bi và lòng nhân ái. Điều ấy càng nổi bật hơn nữa khi nhìn vào tình trạng kinh tế và an sinh trên toàn thế giới, hoặc nhìn vào sự tương quan về các biến cố chính trị và quân sự hiện nay. Ngoài vô số khủng hoảng về xã hội và chính trị, thế giới này còn gánh chịu những chu kỳ thiên tai ngày càng nặng nề. Chúng ta đều chứng kiến trên hành tinh này mỗi năm lại xảy ra càng nhiều những xáo trộn trầm trọng về khí hậu, kéo theo những hậu quả nặng nề về môi sinh. : mưa lũ gây ra ngập lụt trong một số quốc gia ; trong khi các quốc gia khác lại thiếu mưa, gây ra hạn hán và hủy hoại mùa màng. Nhưng cũng may, khắp nơi trên thế giới ngươờ ta đã bắt đầu ý thức được tầm quan trọng của môi sinh. Ta phải hiểu rằng việc bảo vệ môi sinh liên hệ trực tiếp đến sự sống còn của nhận loại. Với tư cách con người, ta phải tập kính trọng tất cả những thành phần trong gia đình nhân loại, từ người láng giềng cho đến bạn bè,… Từ bi, thương yêu, vị tha và và tình thân hữu không những chỉ là chìa khoá giúp sự nẩy nở của con người, mà còn góp phần để bảo vệ sự tồn vong của hành tinh này.

Sự thành công hay thất bại của nhân loại trong tương lai tùy thuộc trước hết vào ý chí và quyết tâm của thế hệ hôm nay. Nếu chính chúng ta không biết xử dụng ý chí và trí thông minh của chính mình, thì chẳng còn ai khác hơn nữa đứng ra bảo đảm tương lai cho thế hệ về sau. Đó là sự thật không tránh né được. Chúng ta không thể nào đổ hết lỗi lầm lên những nhà chính trị hay những người trực tiếp chịu trách nhiệm về các biến cố xảy ra ; chúng ta phải nhận lảnh một phần trách nhiệm cá nhân. Chỉ khi nào mỗi người đều biết ý thức bổn phận cá nhân của mình thì khi đó hành động mới xảy được. Lên tiếng và phản đối không đủ. Thay đổi thực sự phải xuất phát từ bên trong, từ mỗi cá nhân, sau đó từng cá nhân sẽ cố gắng góp phần vào sự an vui của cả nhân loại. Nhân ái không phải chỉ là lý tưởng tôn giáo ; đó là nhu cầu không thể thiếu sót của toàn thể nhân loại.

Lịch sử đã chứng minh cho thấy sức mạnh của con tim có thể góp phần để thực hiện những công trình dân luật, những hoạt động xã hội, giúp giải thoát con người trên phương diện chính trị lẫn tôn giáo. Những nghĩa cử và động cơ thúc đẩy chân thật không phải là của riêng của tôn giáo : những thứ ấy nằm trong tầm tay của tất cả mọi người, đó là sự chăm lo cho kẻ khác, cho những người chung quanh, cho kẻ nghèo khó và thiếu thốn. Tóm lại, những phẩm tính ấy phát xuất từ sự âu lo và mối quan tâm sâu xa về sự an vui của kẻ khác. Nhiều công trình thúc đẩy bởi lòng nhân ái như vừa kể đã đi vào lịch sử như những công trình hữu ích góp phần tích cực trong việc phục vụ cho nhân loại. Ngày hôm nay, khi nghĩ đến những công trình lịch sử ấy, ta sẽ cảm thấy trong lòng tràn ngập hân hoan và hạnh phúc, dù cho chúng đã thuộc vào quá khứ và chỉ còn lưu lại những kỷ niệm mà thôi. Khi nhớ đến một người nào đó đã từng thực hiện được một nghĩa cử cao cả, ta cảm thấy kính mến họ vô cùng. Nhưng cũng đừng quên là ngay trong thế hệ của chúng ta, vẫn có những tấm gương đáng cho ta ngưỡng mộ.

Nhất định, lịch sữ cũng tràn ngập những kẻ vi phạm vào những hành hành vi hung bạo tệ hại nhất : chém giết và tra tấn đồng loại, tạo ra cảnh đày đọa và những nỗi thống khổ không thể tả cho vô số con người. Những thảm trạng đó phản ảnh khía cạnh tối tăm của gia tài nhân loại. Những thứ đó chỉ có thể bộc phát từ hận thù, hung dữ, ganh ghét và sự tàn nhẫn thúc đẩy bởi lợi lộc. Thực ra, lịch sử thế giới là những gì tượng trưng cho trí nhớ tập thể, ghi chép lại những hậu quả phát sinh từ những chủ tâm mang tính cách tiêu cực hay tích cực của con người. Tôi nghĩ rằng những điều trình bày trên đây đã đủ minh bạch. Khi nhìn vào lịch sử, ta sẽ nhận ra rằng nếu muốn đem đến một tương lai tốt đẹp và hạnh phúc hơn, ta phải quan sát chính tâm thức ta đang trong lúc này và tự đặt câu hỏi xem một thể dạng tâm thức như thế sẽ đem đến cho ta một cuộc sống ra sao trong tương lai. Không nên khinh thường tác động ngấm ngầm của những thái độ tiêu cực.

Từ bi là giải pháp hoá giải sự xung đột

Vì chủ trương toàn cầu hoá, nên sự hợp tác trở nên thật hệ trọng, nhất là trong các lãnh vực kinh tế và giáo dục. Phong trào thống nhất Âu châu đã giới hạn ảnh hưởng của quan niệm cho rằng những dị biệt giữa các quốc gia là những gì không thể giải quyết được. Tôi cho điều ấy hết sức tuyệt vời và đúng lúc. Tuy nhiên, sự hợp tác chặt chẽ như vừa kể giữa các quốc gia không phải do lòng từ bi hay đức tin tôn giáo áp đặt, mà chỉ đơn giản phát xuất từ nhu cầu. Xu hướng nghiêng về một thứ lương tâm tập thể ngày càng phát hiện rõ rệt hơn trong thế giới ngày nay, và dưới áp lực của các biến cố xảy ra, sự tương quan chặt chẽ kéo mọi người đến gần với nhau đã trở thành một yếu tố không thể thiếu sót cho sự tồn vong của tất cả chúng ta. Khái niệm về trách nhiệm toàn cầu dựa trên lòng từ bi và tình huynh đệ cũng vậy, có phải đấy là những gì hết sức khẩn thiết hay chăng ? Thế giới này là một sân khấu phơi bày những xung đột mang tính cách ý thức hệ, tôn giáo và cả trong lãnh vực gia đình. Xung đột dựa vào sự kiện người này thích điều này nhưng người bên cạnh lại thích thứ kia. Nhưng nếu ta thử tìm kiếm nguyên nhân sinh ra vô số những xung đột, thì ta cũng sẽ thấy có vô số nguyên nhân, và hầu hết những nguyên nhân ấy lại nằm nội tâm của mỗi con người chúng ta.

Nếu muốn tìm hiểu nguồn gốc của những nguyên nhân gây ra xung đột, thì hãy nên xét đoán khả năng hợp tác của ta đem đến sự hài hoà trước đạ. Tất cả mọi nguyên nhân đều tương đối. Nếu có vô số mầm móng gây ra xung đột, thì cũng có vô số mầm móng giúp cho sự hợp tác và hài hoà. Đã đến lúc phải quan tâm nhiều hơn nữa đến sự hợp nhất. Về điểm này, cần phải kêu gọi đến tình thương yêu giữa con người và sự phân tích kiên nhẫn dựa vào lòng từ bi.

Các quan điểm thuộc về ý thức hệ hoặc về tôn giáo của ta có thể không giống với kẻ khác. Nhưng nếu ta biết kính trọng quyền của kẻ khác và biết bày tỏ lòng từ bi của ta đối với họ một cách chân thật, thì những quan điểm giữa ta và họ dù không giống nhau cũng chẳng hề gì. Đấy chỉ là những điều thứ yếu. Nếu như họ tự tin vào quan điểm của chính họ và rút tỉa được lợi ích, thì đấy là hoàn toàn trong quyền hạn của họ. Ta phải biết kính trọng và chấp nhận trường hợp có thể có những quan điểm không giống nhau trong cuộc sống. Trong lãnh vực kinh tế cũng vậy, những kẻ cạnh tranh với ta cũng cần phải thu hoạch lợi nhuận trên thi trường, vì họ cũng như ta, tất cả đều muốn sống còn. Khi biết nhờ vào lòng từ bi, tầm nhìn của ta cũng theo đó mà mở rộng, tôi nghĩ rằng sự sống nói chung cũng vì thế mà trở nên dễ dàng hơn. Vậy trong trường hợp này, chìa khoá vẫn là lòng từ bi.

Giải trừ vũ khí

Trên một quan điểm nào đó, tình trạng toàn cầu có phần nào cải thiện. Chiến tranh lạnh giữa hai khối Xô viết và Hoa kỳ đã chấm dứt, giờ đây thay vì đi tìm những kẻ thù mới, tốt hơn chúng ta nên nghĩ đến việc giải trừ chiến tranh trên hành tinh này, hay ít ra cũng nên suy tư về một ý niệm nào đó trong việc giải trừ vũ khí, và ngồi lại với nhau để thương thảo một cách nghiêm túc. Tôi vẫn luôn luôn nhắc nhở những người bạn Mỹ của tôi : « Sức mạnh của các bạn không phải là do các thứ vũ khí hạch nhân, mà phát xuất từ những tư tưởng vĩ đại của tổ tiên các bạn trong lãnh vực tự do và dân chủ ».

Trong dịp tôi đến Hoa kỳ vào năm 1991, tôi có gặp cựu tổng thống George Bush. Vào thời kỳ đó, chúng tôi có bàn thảo với nhau rất nhiều về trật tự thế giới và tôi có nói với ông ta như sau : « Một trật tự mới trên thế giới thấm đượm từ bi sẽ là một thứ trật tự tuyệt vời. Nhưng trái lại, tôi không thể hình dung được bất cứ một thứ gì lợi ích trong một trật tự mới cho thế giới này khi mà lòng từ bi không có ».

Tôi nghĩ đã đến lúc cần phải giải trừ vũ khí và phải nêu lên việc này. Sự đổ vỡ của cựu Liên bang Xô viết đã mở ra một con đường đưa đến đến việc giải trừ vũ khí và lần đầu tiên đã cho thấy các khí giới hạch nhân được ngưng sản xuất. Theo tôi, mục đích của chúng ta là giải phóng cho thế giới này – tức hành tinh nhỏ bé của chúng ta – tránh khỏi bàn tay chi phối của vũ khí. Điều đó không có nghĩa là loại trừ tất cả vũ khí. Cần phải giữ lại một số tối thiểu, vì trong số chúng ta lúc nào cũng có những nhóm người mang ý đồ tăm tối. Nếu muốn cẩn thận và tránh rủi ro, chúng ta có thể thành lập một đạo quân cảnh sát quốc tế với sự chỉ huy địa phương, dù cho đạo quân ấy không bắt buộc trực thuộc vào một chính quyền nào cả, nhưng phải đặt dưới sự kiểm soát của Liên Hiệp Quốc, hoặc bất cứ một tổ chức quốc tế nào khác. Làm được như vậy, sẽ không còn một nước nào có vũ khí trong tay, những xung đột vũ trang giữa các quốc gia có thể tránh được, và cũng sẽ không còn nội chiến.

Buồn thay, chiến tranh vẫn còn chiếm giữ một vị thế lớn lao trong lịch sử con người. Tôi nghĩ rằng đã đến thời điểm cần phải thay đổi quan niệm về sự can thiệp. Đối với một số người, chiến tranh có nghĩa là vinh quang và cũng là một phương cách để tạo ra các vị anh hùng. Quan niệm chiến tranh như thế là một sự lệch lạc. Gần đây, trong một cuộc phỏng vấn, một nhà báo có nêu lên với tôi như sau : « Những người Tây phương rất sợ chết ; hình như những người Á châu ít e sợ hơn nhiều ».

Tôi đã trả lời nữa thật nữa đùa như sau : « Tôi nhận thấy quan điểm của người Tây phương đặt một tầm quan trọng quá lớn vào chiến tranh và sức mạnh quân sự. Nhưng một khi đã đề cập đến « chiến tranh » tức là đã nói đến « cái chết » – không phải những cái chết tự nhiên, mà là những cái chết bằng khí giới. Theo tôi, những người Tây phương thích chiến tranh đến độ mà chính họ trở thành những người không sợ chết. Đối với những người Á châu nói chung, và những người Tây tạng nói riêng, thì ý nghĩ về bổn phận phải đánh nhau là một thứ gì không thể chấp nhận được ; chúng tôi không thể nào hình dung nổi chiến tranh, bởi vì chiến tranh sẽ chắc chắn đem đến thảm họa, chết chóc, những vết thương đau đớn và những cảnh cơ hàn. Trong tâm thức chúng tôi, ý niệm về chiến tranh mang tính cách vô cùng tiêu cực. Điều đó chứng minh cho thấy chúng tôi đây, chúng tôi sợ chết hơn quý vị nhiều ».

Tiếc thay, vì một số lý do nào đó, nhiều người vẫn duy trì những ý nghĩ sai lầm về vấn đề chiến tranh. Những ý niệm đó tượng trưng cho một mối nguy hiểm ngày càng trở nên trầm trọng hơn cho cả cộng đồng thế giới, vì thế chúng ta cần phải nghĩ đến việc giải trừ khí giới một cách nghiêm túc. Tôi cảm nhận được điều ấy trong lúc đang xảy ra chiến tranh vùng Vịnh và cả thời gian sau đó. Nhất định, không có ai lại không bất mãn với Saddam Hussein vì ông ta đã phạm vào quá nhiều sai lầm và đã hành động một cách hết sức là tai hại. Quả đúng như thế, nhưng khi đã biết Saddam Hussein là một con người độc tài, thì cũng sẽ hiểu rằng một con người độc tài đương nhiên là một kẻ gây ra tai hại. Tuy nhiên, nếu không có sức mạnh quân sự và không có khí giới, làm thế nào ông ta có thể đóng vai trò của một kẻ độc tài. Ai giúp khí giới cho ông ta ? Chính là một số quốc gia Tây phương, các quốc gia ấy không hề quan tâm đến hậu quả sẽ xảy ra. Những con buôn khí giới cũng phải nhận lảnh một phần trách nhiệm trong đó.

Chỉ biết nghĩ đến tiền bạc và lợi lộc do việc buôn bán khí giới đem đến quả thật là những ý nghĩ vô cùng khủng khiếp. Tôi có gặp một phụ nữ người Pháp đã từng sống nhiều năm ở Beyrouth. Bà hết sức đau buồn kể rằng bà đã thấy tận mắt nhiều người trong túi nhét đầy khí giới đứng bán trong một khu phố, và đồng thời mỗi ngày lại có những kẻ vô tội bị thảm sát trong một khu phố khác bằng những thứ vũ khí ấy. Song song với những thảm trạng đó, phía bên kia của địa cầu, một số người tận hưởng một một cách phè phởn trên số tiền lợi nhuận do việc buộn bán vũ khí đem đến, trong lúc những kẻ vô tội phải chịu chết bằng những vũ khí tối tân ở những nơi khác. Vậy biện pháp trước tiên phải đem ra thực hiện là chấm dứt việc buôn bán vũ khí. Thỉnh thoảng tôi vẫn chế nhạo các bạn hữu Thụy điển của tôi như sau : « Các bạn là một dân tộc tuyệt vời ! Trong cuộc chiến tranh thế giới vừa qua, các bạn giữ thế trung lập và các bạn luôn luôn chủ trương nhân quyền và hoà bình trên thế giới. Thật hết sức cao đẹp ! Nhưng này hãy cẩn thận đấy, các bạn vẫn cứ tiếp tục bán khí giới cho kẻ khác. Các bạn không thấy điều ấy có vẻ hơi đạo đức giả một tí hay sao ? »

Trong khi xảy ra chiến tranh vùng Vịnh, tôi tự hứa rằng tôi sẽ góp sức để phổ biến những ý niệm về sự giải trừ vũ khi cho đến cái ngày cuối cùng của cuộc đời tôi. Tôi quyết định trong tương lai, quê hương Tây tạng của tôi sẽ là một vùng hoàn toàn phi quân sự. Và để chuẩn bị cho một vùng phi quân sự, yếu tố chính yếu nhất vẫn là lòng từ bi của con người.

Trích trong:

Sách: CON ĐƯỜNG ĐƯA ĐẾN HẠNH PHÚC 
Bản gốc tiếng Anh: The compassion life – NXB: Wisdom Publications, Boston, 2001.
Bản tiếng Pháp: Les voies spirituelles du Bonheur – NXB: Presses du Châtelet, Paris, 2002
Hoang Phong Việt dịch.

Xin xem tiếp những Chương Kế Tiếp trong phần Mục Lục dưới đây trong:

Nguồn: thuvienhoasen

Chuyển đến trang:  1,  2,  3,  4 5,  6,