Recent Pages: 1 2 3
Ðức Phật là bậc thầy của các nhà khoa học
Phật (Buddha) là một từ ngữ để chỉ người giác ngộ viên mãn. Ðức Thích Ca Mâu Ni (Sàkyãmuni) là người đã giác ngộ, nên chúng ta gọi Ngài là Phật. Giác ngộ là thấy biết mọi chân lý về vũ trụ và nhân sinh. Từ chỗ giác ngộ này, đức Phật chỉ dạy các môn đồ còn ghi chép lại thành Tạng kinh. Trong tạng kinh chứa đầy dẫy những chân lý, dù trải qua hơn 25 thế kỷ vẫn còn giá trị nguyên vẹn, không do thời gian làm suy giảm. Ngày nay chúng ta nghiên cứu Tạng kinh thật chín chắn, càng phát hiện những chân lý ấy gần gũi và thích hợp với khoa học một cách không ngờ. Trong bài viết này, chúng tôi chỉ giới thiệu tổng quát vài nét cương yếu để đọc giả suy ngẫm.
Về vũ trụ
– Ðức Phật ra đời trên sáu thế kỷ trước công nguyên, còn các nhà khoa học được biết đến, mới có từ thế kỷ thứ 18 sau công nguyên. Thế mà ở thời kỳ ấy, đức Phật nhìn trong vũ trụ thấy thế giới không thể kể hết, nên trong kinh thuộc Hán tạng có những câu “Hằng hà sa số thế giới“, nghĩa là thế giới nhiều như cát sông Hằng (Ganges), hoặc câu “vi trần sát” nghĩa là cõi nước (sát) nhiều như nhũng hạt vi trần. Ðến nay các nhà thiên văn học nhờ viễn vọng kính nhìn thấy trong bầu hư không có không biết cơ man là thế giới. Vô số ngôi sao lấp lánh hiện trên nền trời trong lúc ban đêm, mà mắt chúng ta nhìn thấy được; là những hành tinh (thế giới), còn không biết có bao nhiêu hành tinh khác quá xa mắt không thể nhìn thấy được.
Chính đây là bằng chứng cụ thể, nhờ khoa học giúp chúng ta hiểu được lời Phật dậy cách đây trên 25 thế kỷ: Lại nữa, có lần Ðức Phật cùng các thầy tỳ kheo đi vào rừng, nhìn thấy những lá rơi lả tả và những lá vàng uá sắp về cành, đồng thời có nhũng chòi non vừa nẩy lộc và những mầm vừa nhú khỏi vỏ cây, Ngài dạy các Tỳ Kheo: “Thế giới đang hoại, sắp hoại và đang thành cũng như lá cây trong rừng đang rụng, sắp rụng và đang nẩy chồi, sắp nẩy chồi“.Vì thế, đức Phật thường dạy thế giới có bốn thời :”Thành, trụ, hoại, không.” Ngày nay các nhà khoa học cũng thừa nhận thế giới phải trải qua bốn thời kỳ như thế. Ðây là cái nhìn thích hợp giữa Phật học và khoa học mà cách cách nhau thời gian quá xa.
Về vạn vật
– Vạn vật sinh thành và hoại diệt trên đời, dưới con mắt trí tuệ của đức Phật đều do “duyên khởi“. Duyên khởi là nhân duyên sinh khởi, không có một vật nào hình thành mà không do các duyên nhóm họp. Nếu nói sự vật ngẫu nhiên tự thành, hoặc có bàn tay mầu nhiệm nào tạo dựng đều không đúng sự thật. Ðức Phật xác nhận vạn vật do nhân duyên tụ họp thì thành, nhân duyên ly tán thì hoại. Sự thành hoại cuả vạn vật đều do duyên, là chỗ thấy như thật của đức Phật. Bởi thế trong kinh Phật thường dạy “Các pháp do duyên khởi, không có thực thể, các pháp do duyên khởi, không có cố định“. Không có thực thể là thuyết “vô ngã“. Không có cố định là thuyết “vô thường“, mà trong kinh thường nói “chư hành vô thường, chư pháp vô ngã“.
Không khi nào có một nhân đơn thuần thành hình một vật, cũng không khi nào có sự bất ngờ sinh ra một vật, mà phải đủ duyên mới thành. Vì vậy đức Phật không chấp nhận thuyết “nhất nhân” và thuyết “vô nhân“. Với sự thực này, ngày nay khoa học đã làm sáng tỏ, chúng ta không còn gì phải nghi ngại. Hơn nữa, trước mắt chúng ta thấy vô vàn sự vật, nếu đem ra phân tích đều do nhân duyên hợp thành, không có vật nào tự thành hay do một cái gì đó làm thành. Sự thật hiển nhiên này càng làm sáng tỏ lời đức Phật dạy. Chúng ta thấy rõ Phật học và khoa học tuy thời gian cách xa mà không có giới tuyến ngăn cách.
Về con người
– Khi Phật còn tại thế, Ngài nhìn trong bát nước thấy vô số vi trùng, trong kinh Hán tạng có câu “Phật quán nhất bát thủy, bát vạn tứ thiên trùng” Nghĩa là Phật nhìn trong bát nước thấy tám muôn ngàn (84000) vi trùng. Ngày nay nhờ kính hiển vi, các nhà khoa học thấy trong nước có nhiều vi trùng. Lại nữa, Phật nhìn thấy trong thân người thấy vô số vi trùng, trong Hán tạng có câu “nhơn thân chi nội hữu vô số vi trùng tại trung nhi trú” Nghĩa là trong thân người có vô số vi trùng đang trú ẩn bên trong. Ðiều này ngày nay chúng ta chỉ cần có chút ít kiến thức khoa học là không còn nghi ngờ gì nữa.
Nghiệp lực
– Nếu không có một đấng nào an bày, muôn vật làm sao được sanh thành, hoại diệt và sinh hoạt trong một trật tự nhất định? Nhà Phật nói “do sức nghiệp thúc đẩy và thu hút mọi vật hình thành, khi mãn nghiệp thì hoại diệt. Cũng như do động lực của nghiệp nên mọi vật sinh hoạt trong một trật tự nhất định” Nghiệp là động lực lôi cuốn các duyên tụ họp lại thành hình sự vật; khi sức nghiệp mãn các duyên ly tán thì sự vật hoại diệt. Nghiệp có khả năng cuốn hút sự vật quay cuồng trong quĩ đạo nhất định. Ngày nay các nhà khoa học đã nói do sức quay và sức hút của mọi vật trong vũ trụ, các hành tinh trong bầu vũ trụ hoặc lớn hoặc nhỏ đều quay cuồng trong hư không và trong một quỹ đạo nhất định. Cho đến nhỏ như một hạt nguyên tử cũng quay cuồng và xoắn chặt vào nhau mà thành hình muôn vật. Ðộng lực quay và hút này do nghiệp lực tạo nên.
Nghiệp là đông lực lôi cuốn theo thói quen, đồng thời cảm ứng với vật khác đồng tính nên bị thu hút. Do nghiệp chi phối nên con người và muôn vật trên thế gian được thành hình và sinh hoạt trong một phạm vi nhất định nào đó, khi sức nghiệp mãn con người và muôn vật theo đó hoại diệt. Song nghiệp có thể chuyển đổi được, không phải cứng nhắc cố định, vì nó là động lực. Tuy nhiên thuyết nghiệp báo luân hồi đã có trước thời đức Phật, xuất phát từ các kinh Phệ Ðà (Véda); song với tinh thần tôn trọng chân lý, đức Phật xét thấy đúng sự thật liền ứng dụng đem dậy đệ tử tu hành. Trong đó, đức Phật có sửa đổi những phần lệch lạc theo quan niệm Bà la Môn giáo để lý thuyết này được hoàn chỉnh hơn. Vì vậy, ngày nay mọi người đều thừa nhận thuyết nghiệp báo luân hồi là của đạo Phật.
Ðạo Phật đặt trọng tâm ở con người
– Chỗ thấy biết của đức Phật đúng sự thật, hợp chân lý, nên trải qua thời gian dài mà không sai chạy hay lạc hậu. Ðức Phật không dùng cái thấy biết tuyệt vời ấy để phân tích ngoại cảnh, sử dụng ngoại cảnh phục vụ con người. Ngài chỉ dùng cái thấy ấy biết ấy để soi sáng thẳng vào con người, để thấy biết con người tường tận từ thể xác lẫn tinh thần. Biết rõ con người rồi, đức Phật dạy cách sống đúng tư cách con người, đồng thời chuyển hoá thân tâm đẻ được an lạc trong hiện tại và mãi sau kia. Có lần đức Phật cùng các thầy Tỳ kheo đi vào rừng Simma, Ngài dùng tay nắm một nắm lá cây đưa lên hỏi các thầy Tỳ kheo “Lá cây trong tay ta nhiều hay lá lá cây trong từng nhiều?” Các thầy Tỳ kheo thưa :”Lá cây trong tay Thế Tôn rất ít so với lá cây trong rừng” Ðức Phật dạy “Cũng thế, cho ta thấy biết nhiều như lá cây trong rừng, những điều ta dạy các ông ít như lá cây trong nắm tay ta“
Ðiều này khiến chúng ta thấy rõ, dù việc ấy đúng sự thật mà không cần thiết cho sự đào tạo xây dựng con người được an vui hạnh phúc hiện tại và mai sau, Phật vẫn không đem ra chỉ dạy. Phật chỉ dạy những điều cấp thiết để giải quyết mọi khổ đau cho kiếp sống con người. Vì tuổi thọ con người quá ngắn (60 -70 năm) không đủ thì giờ để học hiểu hết mọi điều trên thế gian này. Phần hệ trọng nhất nơi con người là tinh thần. Tinh thần sai sử thể xác tạo thành nghiệp lành nghiệp dữ, cảm thọ quả khổ, vui ở hiện tại và vị lai. Cho nên bao nhiêu lời khuyên răn của Phật đều đặt nặng sự chuyển hoá nội tâm của con người. Con người nội tâm được trong sáng thì đời sống hiện tại đầy đủ ý nghĩa, sau khi kết thúc cuộc đời mọi sự sáng trong tươi đẹp đang sẵn sàng chờ chực. Ðây là trọng tâm cứu khổ chúng sinh của đức Phật Thích Ca, cũng là của đạo Phật.
Ðạo Phật chủ trương giác ngộ, giải thoát, từ bi, bình đẳng – Ðức Phật do giác ngộ nên thành Phật, suốt đời giáo hoá của Ngài cũng lấy giác ngộ làm trọng tâm. Người tu Phật mà thiếu giác ngộ là không phải người đệ tử chân chính của đạo Phật. Khổ đau gốc từ vô minh, muốn hết khổ đau phải dứt sạch vô minh. Chỉ có ánh sáng giác ngộ mới dẹp tan được màn vô minh, ngoài giác ngộ ra không còn cách nào dẹp được vô minh. Như chỉ có ánh sáng mới dẹp được bóng tối, ngoài ánh sáng không có cái gì dẹp được bóng tối. Vô minh không tan thì đayu khổ làm sao hết được. Vì thế, phương pháp duy nhất để cứu khổ chúng sinh là giác ngộ. Ðây là nguyên nhân đạo Phật lấy giác ngộ làm chủ yếu.
Nhờ giác ngộ con người mới giản trạch được điều chân lẽ ngụy, thấy rõ cái gì trói buộc, cái gì tự do, nên chọn được lối sống thích ứng lẽ thật, phù hợp với tinh thần tự do. Tự do đây không có nghĩa đòi hỏi bên ngoài, nơi kẻ khác mà tụ chiến thắng những dục vọng đê hèn của mình, hàng phục được vọng tưởng điên đảo của nội tâm. Ðúng với câu đức Phật dạy: “Thắng một vạn quân không bằng thắng mình, thắng mình mới là chiến công oanh liệt“.
Tinh thần tự do của đạo Phật là làm chủ toàn vẹn thể xác lẫn tinh thần của chính mình. Ðó là tự do tuyệt đối, cũng là giải thoát của Phật dạy. Ðem vui và giải khổ cho chúng sanh là lòng từ bi của đạo Phật. Muốn cho mọi người hết khổ được vui, tu sĩ Phật Giáo lúc nào cũng đưa cao ngọn đuốc chánh pháp cho mọi người mồi, để cùng thắp sáng trong căn nhà tăm tối muôn đời của mình. Bản thân mình, người tu sĩ phải chiến thắng phiền não để làm mẫu mực và chỉ dạy người dẹp trừ phiền não. Vô số khổ đau của chúng sanh đều phát xuất từ si mê và phiền não. Thiếu thốn vật chất là đau khổ đã đành, có khi thừa mứa vật chất người ta vẫn đau khổ như thường. Cho nên trí tuệ là hòn ngọc quý để đổi lấy của cải và sự nghiệp, trí tuệ là ngọn đuốc soi sáng cho chúng ta tránh khỏi lạc lối lầm đường. Dứt một phần phiền não, chúng ta được một phần an lạc, hoàn toàn sạch phiền não thì còn gì làm phiền lụy chúng ta. Sau khi mở sáng con mắt trí tuệ và dứt sạch phiền não, con người mới được an vui tự tại đầy đủ. Người tu sĩ Phật giáo tha thiết cứu khổ chúng sanh bằng cách tận lực chỉ dạy cho mọi người được trí tuệ và tự do.
Phật giáo chỉ nhìn chúng sanh đều bình đẳng trong bản tánh, chỉ có sai khác trên nghiệp tướng. Nghiệp tướng là cái sinh diệt biến động, bản tánh chưa bao giờ sinh diệt đổi thay. Cái sanh diệt biến động là tạm bợ, đã tạm bợ dù sai khác thế mấy cũng không quan trọng. Chính cái quan trọng là bản tánh thường hằng của chúng sanh. Cho nên đức Phật thường dạy “Tất cả chúng sanh đều có tánh Phật“, đó là lối nhìn bình đẳng của Phật giáo. Thấy thấu suốt được lẽ này, chúng ta sẽ dứt được tâm tự cao ngã mạn và không còn dám khinh thường một ai. Ðây là nền tảng đạo đức chân thật, nên Bồ tát Thường Bất Khinh thấy ai cũng nói “Tôi không dám khinh các ngài, các ngài sẽ thành Phật“. Ðã sẵn có tánh Phật thì người nào tu mà chẳng được, chỉ do chưa thức tỉnh và lười nhác mà thôi. Do cái nhìn thấu suốt này, người tu theo đạo Phật không bai giờ có tâm kỳ thị với bất cứ nhóm nào, cũng không có tâm khinh khi miệt thị ai.
Ðạo Phật lấy giác ngộ làm gốc rễ, lấy giải thoát làm hoa trái, lấy từ bi và bình đẳng làm nhựa sống. Bốn yếu tố này rất thiết thân với nhân loại văn minh. Bất cứ nền văn minh chân chính nào đòi hỏi con người phải có đủ trí tuệ sáng suốt, thong thả tự do, tình thương làm vơi cạn đau khổ cho con người, bình đẳng không chấp nhận giai cấp, không kỳ thị tôn giáo, chủng tộc, màu da. Nếu thiếu một trong bốn yếu tố này, dù nói văn minh vẫn chưa thực sự văn minh. Ðứng từ góc độ này mà nhìn, chúng ta thấy đức Phật đã quả thực đi trước các nhà khoa học xa; tương lai dù nhân loại văn minh tiến bộ đến đâu cũng khó qua mặt được đạo Phật.
Trích Sách: Cành Lá Vô Ưu
Hòa Thượng: Thích Thanh Từ – thuongchieu.net
THIỀN ÐỊNH PHẬT GIÁO và
KHOA SINH HỌC
(Buddhist Meditation and Bioscience)
Nguyên tác : Dr U. Aung Thein
Việt dịch: Trần Như Mai
.
Chúng ta cần ghi nhận một điểm thú vị là khi kiến thức khoa học về con người và vũ trụ càng gia tăng thì càng có nhiều bằng chứng được đưa ra để chứng minh giáo lý của Ðức Phật là đúng. Phật giáo là con đường giải thoát do Ðức Phật khám phá ra. Giáo lý đạo Phật được thể hiện qua Tứ Diệu Ðế và Bát Chánh Ðạo. Giải thoát bao hàm sự chấm dứt hoàn toàn vòng luân hồi sinh tử.
Khoa học là việc nghiên cứu một cách khách quan những qui luật của tự nhiên để đưa ra những nhận định tổng quát và lời giải thích cho các hiện tượng đã được quan sát. Như nhà sinh lý học người Pháp Loeb đã nói :” Mục đích tối hậu của khoa học là để tiên đoán”.
Con đường giải thoát do Ðức Phật dạy có thể được mô tả như một dường lối thực nghiệm và dựa trên kinh nghiệm hành trì. Cũng giống như trong khoa học, nhà nghiên cứu tiến hành từng bước một, thì trong Phật giáo, con người cũng tiến đến mục đích bằng cách luyện tập từ từ để từng bước đạt đến chánh tri kiến. Trong Phật giáo, nêu câu hỏi với các bậc tu hành không bị xem là thiếu lễ độ, vì đức tin mù quáng chẳng đưa đến đâu cả. Kiên trì tu tập chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp sẽ chuyển hóa con người để đạt đến tâm thanh tịnh cao thượng và tiến đến mức tột đỉnh là chấm đứt hoàn toàn vòng sinh tử luân hồi.
Bát Chánh Ðạo được chia thành ba thành phần chính:
Phần thứ nhất là Giới , gồm có chánh ngữ, chánh nghiệp,và chánh mạng.
Phần thứ hai là Ðịnh, gồm có chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định.
Phần thứ ba là Tuệ, gồm có chánh tri kiến và chánh tư duy.
Trong Phật giáo, một sự kiện đựơc xem là nền tảng của giáo lý cho rằng tất cả sinh vật hữu tình là một tập hợp của ngũ uẩn gồm có sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Năm thành tố này mang tính chất vô thường và lệ thuộc vào nhau, và xuyên qua nghiệp, chúng sẽ duy trì một quá trình vận hành tự động không bao giờ chấm dứt, đưa đến kết quả là một chuổi luân hồi sinh tử kể từ thời vô thủy và vẫn cứ tiếp tục cho đến khi có một phản ứng ngược lại có tác dụng vô hiệu hoá nó và đưa nó đến một trạng thái chấm dứt hoàn toàn hay sự giải thoát tối hậu.
Chúng ta hãy quan sát “con người ngũ uẩn” mà Ðức Phật đã nói là :“Trong tấm thân dài sáu bộ này chứa đựng tất cảnhững bí ẩn và vấn đề của vũ trụ”.
Trong Kinh Tứ Niệm Xứ ( Satipatthāna) và Kinh Ðại Niệm Xứ ( Mahāsatipatthāna) có nói rằng thân con người là một tập hợp của tứ đại gồm các chất lỏng và chất rắn. Một lần nữa, trong Kinh Mi-Tiên Vấn Đạo (Milinda Pañha), khi trả lời câu hỏi của Nhà Vua, Bậc Ðại Giác đã so sánh thân con người như một tập hợp của các bộ phận rời và bày tỏ ý kiến rằng không có một cái gì gọi là một tổng thể hợp nhất cả.
Theo quan điểm hóa sinh và khoa giải phẩu học thì thân thể con người chỉ là một tập hợp các hệ thống hữu cơ trong đó những quá trình hóa học vẫn diễn biến liên tục. Nó cũng giống như “Cơ cấu trợ động” (Servomechanism) bởi vì, khi một bộ phận bị trục trặc thì toàn bộ hệ thống sẽ bị ảnh hưởng. Khả năng và khuynh hướng của cơ thể là luôn luôn tìm cách tái lập mức ổn định bình thường hay mức độ cơ bản được biết như là “ trạng thái quân bình tâm lý” ( Homeostasis).
Theo lời dạy của Ðức Phật thì giữ cho thân và tâm ở trong một trạng thái quân bình là điều kiện tiên quyết để duy trì sức khoẻ thể chất, tình cảm và tinh thần rất cần thiết cho việc thực hành thiền định.
Trạng thái quân bình về thể chất, tình cảm và tinh thần đạt được là nhờ thực hành Giới, là nhóm ba thiện hạnh đầu tiên của Bát Chánh Ðạo ( Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng). Trong Thanh Tịnh Ðạo (Visuddhimagga), Giới được mô tả như là kiêng cử, tác ý, không phạm. Chướng ngại đối với Giới chính là sân hận, độc ác, giả dối, lo âu, ganh ghét, xảo trá, bất mãn, kiêu căng, ngã mạn, lười biếng, tham dục, miệng lưỡi buông lung, hạ liệt, không biết chế ngự các căn. Mục đích của Giới là để đối trị với những ác hạnh trên .
Bất cứ trạng thái tâm lý nào trong số các chướng ngại nêu trên cũng đều tạo ra sự thay đổi trong mức độ quân bình sinh hóa của cơ thể. Con người càng mất quân bình thì não bộ càng tiết ra nhiều hóa chất như là Acetylcholine, Serotonin, và Epinefrin . Những hóa chất này sẽ kích hoạt làm sản sinh nhiều hậu quả khác nhau trên các bộ phận của cơ thể như tuyến giáp trạng, tuyến thượng thận, bộ tiêu hóa và các cơ quan sinh sản. Ví dụ, khi nỗi cơn thịnh nộ, tức giận hay dao động thì não bộ con người sẽ tiết ra chất Epinefrin làm gia tăng huyết áp, tăng nhịp đập của tim và tăng lượng khí oxy cần tiêu thụ.
Những trạng thái tâm lý thông thường khác mà chúng ta thường gặp là sợ hãi và lo âu. Khi con người ở trong trạng thái tâm lý như vậy thì dạ dày và đường ruột sẽ tiết ra một số lượng chất acid cao hơn bình thường, và nơi nào bị acid tấn công thì sẽ sinh ra chứng viêm loét niêm mạc.
Tình trạng căng thẳng tinh thần kéo dài được biết là sẽ làm tổn hại hệ thống tự động của não bộ, tạo nên những ảnh hưởng tiêu cực đến tính nhu động của thực quản và làm xáo trộn bộ tiêu hoá và bài tiết. Kết quả là con người sẽ bị táo bón và tự tạo nên tình trạng ngộ độc cho chính mình, như vậy sẽ ảnh hưởng tai hại đến sức khỏe thể chất, tình cảm và tinh thần của cá nhân đó.
Ta có thể hiểu tại sao Ðức Phật nhấn mạnh đến vấn đề thực hành Giới như là điều kiện tiên quyết cho việc hành thiền. Hành thiền không thể nào thành công khi cơ thể, tình cảm và tinh thần của cá nhân đó đang bị tổn hại. Người nào đã giữ Giới sẽ có thể thành công trong hành thiền, loại bỏ được những chướng ngại và có thể quán chiếu thực tại của các pháp tại và cuối cùng có thể đạt được giải thoát. Ba mục tiêu cao thượng ấy có thể đạt được trong bốn giai đoạn của Tứ Thiền.
Giống như trong khoa học, việc thành tựu một mục tiêu khoa học diễn ra từ từ và có phương pháp, cũng vậy việc thành tựu mục đích của Phật giáo qua thực hành thiền định cũng diễn ra từ từ,có thứ bậc và liên hệ chặt chẽ với các trạng thái sinh lý của cơ thể.
Áp dụng một vị trí tọa thiền vững chắc, an trú tâm vững chải không dao động và tập trung tư tưởng cao độ, là những điều kiện tiên quyết cho việc hành thiền. Ðức Phật đã hết sức ca ngợi pháp Quán Niệm Hơi Thở để thanh tịnh tâm mà nhờ đó chính Ngài đã chứng ngộ giải thoát.
Các nhà nghiên cứu hiện đại đã khám phá ra rằng các hành giả trong lúc hành thiền đã giảm mức độ hô hấp, mức tiêu thụ dưỡng khí cũng giảm khoảng 20% và mức thải thán khí cũng giảm.
Những tác dụng sinh lý khác cũng đã được chứng minh là việc giảm thiểu mức độ trao đổi chất trong cơ thể, việc giảm chất acid lactic trong máu đồng thời với việc gia tăng độ pH và việc giảm sút phản ứng co giật của da.
Bằng cách đoạn trừ các chướng ngại pháp sẽ đưa đến kết quả là một trạng thái an tịnh thân tâm, cùng với việc thực hành định tâm thật thiện xảo, hành giả sẽ chứng được Sơ Thiền ( First Jhāna). Ðây là một trạng thái ly dục do hoàn toàn chế ngự được sắc giới. Bước chuyển tiếp sơ khởi này được xem như là một trong những nhiệm vụ khó khăn nhất mà hành giả cần đạt được trên con đường thiền định.
Sau khi chứng được Sơ Thiền, hành giả cố gắng chinh phục các cảnh giới của tâm. Nhị Thiền ( Second Jhāna) vận dụng sức mạnh của tập trung tư tưởng, đó là khả năng định tâm. Ðiều này được biết như là trạng thái nội tĩnh nhất tâm ( Ekkāgathā ).
Người ta có thể tưởng tượng ra những tác dụng lớn lao như thế nào và những phản ứng hóa sinh mang lại cho não bộ do thiền định được duy trì trong một thời gian dài , vì trong khoa học người ta đã biết rằng sự luyện tập trong một thời gian ngắn bình thường cũng có tác dụng tạo ra thay đổi trong các đối tượng được thí nghiệm.
Các cuộc thí nghiệm ở WCLA Berkley vào năm 1964 cho thấy rằng các đối tượng thí nghiệm sau khi được cho tiếp xúc với một môi trường học tập phong phú đã phát triển những lớp võ não dày và nặng hơn, và hai chất enzyme của não cũng được ghi nhận là có tổng số hoạt động nhiều hơn . Chúng cũng sản sinh được những thân tế bào não lớn hơn.
Kiến thức thông thường cũng cho chúng ta biết rằng tập trung tư tưởng và nội tâm an tịnh cũng phát sinh các làn sóng. Trạng thái an tịnh này có thể được duy trì lâu dài nhờ phương pháp phản hồi sinh học (bio-feedback).
Các hoạt động tinh thần được biết là có ảnh hưởng đến việc sản sinh chất RNA, chất này có tương quan chặt chẽ với việc tổng hợp chất protein. Cả chất RNA lẫn các phân tử protein được cho là có liên quan đến trí nhớ đoãn kỳ và trường kỳ. Như vậy, trạng thái tinh thần trong lúc hành thiền có thể được xem như là có ảnh hưởng đến việc sản sinh các loại chất RNA và protein đặc biệt. Bác sĩ Penfield trong công trình nghiên cứu về vấn đề kích thích não bộ đã chứng minh rằng phương pháp kích thích não bộ bằng dòng điện có thể giúp con người nhớ đến các kinh nghiệm trong quá khứ. Cũng tương tự như vậy, hành giảvới sức mạnh của việc tập trung tư tưởng có thể kích thích hoạt động của dòng điện trên bất cứ nơi nào của não bộ và giúp tăng cường trí nhớ. Vì các chúng sinh hữu tình đã hiện hữu từ thời vô thủy, ta có thể kết luận rằng đối với một vị đã chứng đắc Nhị Thiền thì việc nhớ lại các tiền kiếp có thể đạt được xuyên qua cơ cấu hoạt động này của não bộ.
Tam Thiền là một trạng thái trong đó hành giả an trú trong Xả ( xả niệm lạc trú) . Vị ấy quán sát các pháp sinh diệt với tâm hoàn toàn khách quan vô tư. Vị ấy đang ở trong một trạng thái năng luợng hoàn toàn quân bình. Vị ấy không cảm thấy quá căng thẳng cũng như quá thư giãn, và vị ấy hiện hữu như một phân tử đang ở trong một dạng năng lượng cơ bản. Trong trạng thái này, các tiến trình hoạt động của cơ thể con người đòi hỏi ít năng lượng nhất và con người đang đáp ứng chức năng hóa học quan trọng của sự sống, có nghĩa là giảm tình trạng rối loạn cơ thể đến mức tối thiểu. Hành giả trong trạng thái này đã đoạn trừ tâm bất an, lo âu và dao động.
Khi chứng đắc Tứ Thiền, hành giảan trú trong một trạng thái thuần tịnh, kết hợp với tỉnh giác và xả. Sau khi diệt khổ ưu, xả hỷ lạc toàn cả thân tâm, cuối cùng hành giả đạt đến một trạng thái hoàn toàn vô chấp thủ và giải thoát.( xả niệm thanh tịnh)
Tôi sẽ kết luận bằng một dẫn chứng liên hệ đến thiền định. Người ta biết rằng sự hiện diện của các calcium ions có ảnh hưởng đến việc truyền đạt tín hiệu của não bộ. Trong lúc hành thiền các làn sóng điện từ được phát sinh vào khoảng từ 7 đến 13 vòng mỗi giây. Nếu các làn sóng điện từ với tầng số này được dùng để kích thích não bộ thì từ các màng tế bào não sẽ phát sinh ra một chất calcium hổn hợp. Những cuộc thí nghiệm không gian gần đây với các phi hành gia trong trạng thái vô trọng lượng kéo dài ngoài không gian đã tạo cho họ những kinh nghiệm mang tính chất tôn giáo hoặc tâm linh.
Số lượng gia tăng các calcium ions được thoát ra do quá trình phân hủy chất calcium của xương sẽ lưu thông trong mạch máu và như vậy có lẽ chúng sẽ đi đến não bộ.
Không có gì là không hợp lý khi kết luận rằng kinh nghiệm tâm linh của thiền giả và kinh nghiệm của phi hành gia trong trạng thái vô trọng lượng kéo dài có thể bắt nguồn từ cùng một hiện tượng sinh lý có tên là sự thay đổi lượng calcium hổn hợp trong thần kinh hệ.
Tóm lại, tôi đã cố gắng chứng minh trong bài viết này rằng con đường giác ngộ vượt thời gian của Ðức Phật là một con đường khoa học. Mục đích của Phật giáo và khoa học là khám phá ra qui luật của tự nhiên, và cuối cùng là để đạt đến mục tiêu đã định bằng cách áp dụng những kỹ thuật chính xác.
Ðức Phật đã dạy : “Hãy đến và thấy” ( Ehipassako !). Còn bức thông điệp của bài này là : Hãy Hành Thiền, Thực Nghiệm và Trải Nghiệm.
Source : Buddhism and Science
Nguồn: thuvienhoasen
PHẬT, VŨ TRỤ HỌC, VÀ TIẾN HÓA
Tác giả: David R. Loy – Tuệ Uyển
Hình ảnh bề mặt từ kính viễn vọng không gian Hubble, của một thiên hà xoắn ốc được cấu trúc bởi một lỗ đen ở trung tâm của nó. Vòng dày đặc chung quanh cái lõi màu vàng là một khu vực của hoạt động sinh sao. Những cánh tay xoắn ốc thì thấy mờ nhạt.Ngay cả với tất cả những lý thuyết khoa học sâu xa này về khởi nguyên của vũ trụ, tôi gợi lại những câu hỏi quan trọng: Điều gì tồn tại trước big bang? Big bang đến từ chốn nào? Nguyên nhân làm ra nó là gì? Tại sao hành tinh của chúng ta tiến hóa để hỗ trợ cho sự sống? Mối quan hệ giữa vũ trụ và những thứ hiện hữu đã tiến hóa trong ấy là gì? Các nhà khoa học có thể gạt qua những câu hỏi này như vô lý, hay họ có thể nhận thức tầm quan trọng của chúng nhưng phủ nhận rằng chúng thuộc lãnh vực thẩm tra của khoa học. Tuy nhiên, cả những sự tiếp cận này sẽ có hệ quả về những giới hạn tri thức rõ ràng đối với kiến thức khoa học về khởi nguyên vũ trụ của chúng ta. Tôi không lệ thuộc vào những câu thúc chuyên môn hay lý tưởng của một quan điểm căn bản vật chất trần gian.–ĐứcĐạt Lai Lạt MaCó sự vĩ đại trong quan điểm [tiến hóa] này về sự sống, với một vài năng lực của nó, ban sơ[1],đã thổi vào một ít hình sắc hay vào trong một hình sắc; và với việc ấy, trong khi hành tinh này luân chuyển phù hợp với quy luật tương ứng hấp dẫn, từ những hình thức rất đơn giản vô thỉ xinh đẹp nhất và kỳ diệu nhất đã và đang tiến hóa.–Charles DarwinĐối với vũ trụ học Phật Giáo, vòng lưu chuyển của đời sống của một vũ trụ là tuần hoàn. Có một thời điểm hình thành (thành), một thời điểm trải qua (trụ), một thời điểm suy tàn (hoại), và một thời điểm trống rỗng (không), trước khi những hình thức của một vũ trụ mới từ không gian rực rỡ duy trì. Không gian ấy, theo Thời Luân Mật Pháp (Kalachakra Tantra), không tách rời với thời vô thỉ, tâm thức phổ quát.Những thúc ép của chủ nghĩa vật chất khoa học
Một nhận thức rất khác biệt được cung ứng bởi khoa học cơ khí. Từ những nguồn gốc Âu châu của nó vào thế kỷ mười bảy đến thành quả sau cùng của nó trong thế kỷ mười chín, nó nhấn mạnh vấn đề ấy là cơ chế vô thức tương tác trong không gian đông cứng. Và những tiền đề này không chỉ là những sự trừu tượng hóa thông minh. Chúng đã trở thành những tin tưởng về thực tại được chia sẻ bởi văn hóa con người ở địa cầu. Cấu trúc kinh nghiệm khách quan của chúng không thể không bị ảnh hưởng bởi khái niệm rằng chúng ta là những cơ chế, tọa lạc trong một vũ trụ cơ giới vô thức.
Những giả định trước như vậy được trình bày không chướng ngại đến tiến trình nổi bật trong khoa học, công cụ, và kỹ thuật. Chúng hiếm khi được đặt vấn đề trong những hệ thống niềm tin thông thường nhất trong khoa học hay xã hội. Chúng ta có thể biết rằng khoa học lượng tử đã khơi mở vật chất cụ thể là những hình thức năng lượng và tiến trình, nhưng chúng ta thích không liên hệ để lưu tâm những hàm ý của sự kiện rằng, với những khám phá như vậy, chủ nghĩa vật chất là tự chuyển biến.
Từ điểm không đến mạng lưới toàn cầu
Điện động lực lượng tử là một lý thuyết tiên đoán đầy năng lực được phát triển bởi khôi nguyên Nobel vật lý Richard Feynman và những người khác. Nó đề xuất rằng những hạt ảo, điện tử (electron) và lượng tử (photon) xuất hiện và biến đi từ phạm vi của điểm không, chân không lượng tử bao quát khắp vũ trụ. Điều này là huyền bí tương tự như vũ trụ học Đạo Phật diễn tả bản chất của vũ trụ như thế nào, phát sinh trong không gian rực rỡ mà là nền tảng của chính tâm thức[2].
Một nền văn hóa bị lèo lái bởi kinh tế giống như những gì chúng ta liên hệ đến sự phân chia như những khám phá hơn là phản chiếu trên những gì hay có lẽ được thay đổi bởi chúng. Nó nhiệt tình đi theo mỗi áp dụng kỷ thuật của vật lý lượng tử – từ chất bán dẫn, tia laser, và quang học sợi đến máy điện toán đến internet. Nó chuyên chở đến cả ngàn tỉ đô la tác động kinh tế của họ. Thông điệp là rõ ràng: quên lãng vũ trụ học – đấy là kinh tế, ngu xuẩn!
Một vũ trụ tiến hóa
Nhưng chúng ta có thể thật sự quên lãng vũ trụ học mà không đánh mất dự tính cho chính chủng loại chúng ta chứ? Chúng ta trước nhất trông thấy sự vĩ đại của thuyết tiến hóa với những khám phá của Charles Darwin về nguồn gốc của sự sống trên mặt đất. Những gì đúng đắn cho nguồn gốc những chủng loại trên hành tinh của chúng ta không nghi ngờ gì nữa phản chiếu một nguyên tắc phổ quát: chúng ta sống trong một vũ trụ tiến hóa, không chỉ là một máy móc vô tri vô giác.
Như Thomas Berry đã chỉ ra, nếu chúng ta khôi phục sự thống nhất nền tảng của tâm linh và vật chất, bị chia tách một cách giả tạo bởi chủ nghĩa vật chất khoa học, câu chuyện khoa học về vũ trụ cũng có thể phục vụ một cách đẹp đẻ như câu chuyện thần thánh mới của chúng ta (new sacred story – Câu chuyện của vũ trụ). Đối với vũ trụ học Phật Giáo, sự tiến hóa sinh học hiện diện hoàn toàn không có rắc rối gì: lịch sử tự nhiên và lịch sử tâm linh là hai mặt của đồng tiền. Tâm thức không có bắt đầu của không gian rực rỡ [3]đã cho sự phát sinh của vũ trụ tiến hóa này và từ một hình thức khởi đầu vô tận vô cùng đơn giản hình thành xinh đẹp nhất và kỳ diệu nhất đã và đang tiến hóa. Nhưng nó không tránh khỏi rằng những hình thức vô chung sẽ tiếp tục để tiến hóa trong một cung cách tự nhiên.
Tin tức lớn nhất cho 65 triệu năm
Sự tự sáng tạo của Trái đất cuối cùng đã tiếp tục trong 4.5 tỉ năm. Hình thức của đời sống sinh học bộc khởi như một đơn bào khoảng 3.8 tỉ năm trước đây. Đời sống đa bào ở tuổi một tỉ năm. Chủng loại con người “cầu trúc hiện đại” là khoảng một phần tư triệu tuổi. Như Wes Nisker viết trong Kinh Tiến Hóa (Evolution Sutra) của ông ta, chúng ta chỉ là một loại động vật mới trên mặt đất.
Những hình thức truyền thừa sự sống ấy đã được tiến hóa phối hợp qua những thử thách ngoại hạng của tiệt chủng và thay đổi. “Những sự kiện tiệt chủng” đã xảy ra khoảng 440, 360, 245, và 208 triệu năm vềtrước. Lần thứ năm xảy ra 65 triệu năm trước đây, khi một khối đá trời khổng lồ đụng vào bán đảo Yucatan[4]. Những loài khủng long bị quét sạch, chấm dứt kỷ nguyên của những loài bò sát khổng lồ và bắt đầu kỷ nguyên của động vật có vú như chúng ta – Kỷ Đại Tân Sinh – the Cenozoic.
Những nhà sinh vật học và khoa học trái đất đồng ý rằng trong thế kỷ 21, sự tiệt chủng thứ sáu đã bắt đầu, và nguyên nhân duy nhất làm ra là một chủng loại đặc thù: chúng ta. San hô ngầm có lẽ là hệ thống sinh thái học toàn bộ thứ nhất bị xóa sổ khỏi Trái Đất bởi hành vi của con người. Một phần tư những chủng loại cây cỏ và động vật có thể biến mất vào năm 2050, một khủng hoảng tiến hóa liên hệ đến sự đổ vở khí hậu địa cầu nhưng thường bị làm lu mờ bởi nó. Trong căn bản, kiểu mẫu kinh tế hiện đại đang thúc đẩy toàn bộ đời sống trên Trái Đất đến những cực điểm (tipping points) cho cả hệ thống vi sinh đa dạng và hệ thống khí hậu.
Đây có thể hoàn toàn có thể là tin tức lớn nhất trong 65 triệu năm, nhưng nó hiếm khi được trình bày như tin tức chính thức gì cả, bởi vì nó đưa lên những câu hỏi cấm kỵ cho xã hội phát triển công nghiệp mà chúng ta đi đến cho là đương nhiên. Chúng ta tốt hơn đừng nghĩ về những hàm ý hay những liên hệ mật thiết đối với lối sống của chúng ta ngày nay, và chủ nghĩa tiêu thụ được cung cấp bởi quảng cáo và sự tuyên truyền liên hợp thúc đẩy chúng ta đừng phiền tới. Thật an lòng hơn để tiếp tục với thể thao! Nhưng những câu hỏi lo âu vẫn hiện hữu. Tại sao chúng ta đang liều lĩnh với sự sụp đổ của tiến trình tiến hóa phổ quát? Chúng ta không ở đây để tồn tại và thành công chứ? Tại sao hành tinh chúng ta đã tiến hóa để hỗ trợ sự sống bằng mọi cách?
First published on the Huffington Post, 26.2.2012 Nguyên tác: Buddhism, Cosmology & Evolution Ẩn Tâm Lộ ngày 20-3-2012 http://www.ecobuddhism.org/wisdom/editorials/bce/– Linh quang, tịnh quang, ánh sáng trong suốt, clear light tương đồng với buddha-nature hay Phật tính. . Source: thuvienhoasen
THIỀN DƯỚI MẮT KHOA HỌC
Cư Sĩ Nguyên Giác
Khoa học nhìn về thiền Phật Giáo như thế nào? Dưới đây là một cuộc nghiên cứu khoa học tại Đạị Học New York University, do phóng viên Matt Danzico tường thuật, đăng trên BBC News ngày 24-4-2011. Bản dịch Việt ngữ toàn văn như sau.
Não bộ của các vị sư Phật Giáo được chụp lại bởi máy scan (máy quét) trong cuộc nghiên cứu về thiền.
Cuộc nghiên cứu khảo sát về các não bộ của các vị sư.
New York, USA – Trong một phòng thí nghiệm nằm tách ra khỏi một con đường ở thành phốNew York ồn ào, một nhà khoa học về thần kinh có ngôn ngữ dịu dàng đang đưa các vị sư Tây Tạng vào một máy quét não bộ lớn như một xe hơi để tìm hiểu rõ hơn về việc tu tập thiền định xưa cổ này.
Nhưng cuộc nghiên cứu dị thường này có thể không chỉ làm sáng tỏ các bí mật của việc sống một cuộc đời hòa hài, nhưng cũng có thể đưa ánh sáng vào một số trong các căn bệnh huyền bí hơn của thế giới?
Zoran Josipovic, nhà khoa học và là giáo sư tại New York University, nói rằng ông đang khảo sát các não bộ của các vị sư trong khi họ thiền định, nhằm tìm hiểu về cách nào các não bộ của họ tự tái cấu trúc trong khi thiền định.
Kể từ năm 2008, nhà nghiên cứu này đã đưa tâm và thân của các tu sĩ Phật Giáo cao cấp này vào bộ máy fMRI (máy phân hình từ tính) nặng tới 5 tấn này.
Máy quét này theo dõi độ máu chảy trong đầu các vị sư trong khi họ thiền định bên trong các bức vách của máy, nơi đó vang ra tiếng êm dịu đều đặn trong khi máy chạy.
Tiến sĩ Josipovic, bản thân cũng là một vị sư Phật Giáo, nói rằng ông hy vọng sẽ tìm hiểu được cách mà một số thiền sư thành đạt trạng thái “bất nhị” (nonduality) hay còn gọi là “nhất thể” (oneness) với thế giới, một tâm thức hợp nhất giữa một người và môi trường chung quanh.
Zoran Josipovic nhìn vào các đồ hình quét não bộ trên máy điện toán. Cuộc nghiên cứu đặc biệt nhìn vàò mạng lưới tự nhiên trong não bộ, nơi kiểm soát các ý niệm tựquán sát.
Tiến Sĩ Josipovic nói, “Một điều mà thiền định giúp cho những người tập nhiều là sẽtăng khả năng chú tâm,” và thêm rằng các kỹ năng tu tập có thể giúp đưa tới một cách sống bình lặng hơn và hạnh phúc hơn.
“Nghiên cứu về thiền, đặc biệt trong khoảng 10 năm qua, đã cho thấy rất hứa hẹn, bởi vì nó chỉ ra một khả năng của não bộ để biến đổi và tối ưu hóa trong một cách mà chúng ta trước đó không biết là có thể như thế.”
Khi một người thoải mái vào trạng thái của “nhất thế” (oneness), mạng lưới thần kinh trong các vị tu thiền kinh nghiệm sẽ thay đổi như là họ hạ thấp bức tường tâm lý giữa họ và môi trường quanh họ (lower the psychological wall between themselves and their environments), theo lời Tiến sĩ Josipovic.
Và trạng thái tái tổ chức này trong não bộ có thể dẫn tới điều mà một số thiền sư nói là một sự hòa hài sâu thẳm giữa họ và môi trường chung quanh.
Biến đổi sự chú tâm
Cuộc nghiên cứu của Tiến sĩ Josipovic là một phần trong nỗ lực lớn hơn để tìm hiểu cái mà các khoa học gia gọi là mạng lưới nội ứng (default network, mạng lưới tựnhiên, mặc định, bản tánh) trong não bộ.
Ông nói bộ não có vẻ như được tổ chức làm 2 mạng lưới: mạng lưới bên ngoài, và mạng lưới nội tại (intrinsic, or default, network).
Zoran Josipovic sửa soạn đưa một vị sư vào máy quét não bộ fMRI. Tiến sĩ Josipovic đã quét não bộ của hơn 20 vị tu thiền nhiều kinh nghiệm trong cuộc nghiên cứu này.
Mạng lưới bên ngoài của não bộ trở thành tích cực khi các vị tập trung vào việc làm bên ngoài, thí dụ như chơi thể thao, hay rót một tách cà phê.
Mạng lưới nội tại của não bộ chuyển động khi người ta quán niệm về điều liên hệ tới chính họ và tới cảm xúc của họ.
Nhưng các mạng lưới này hiếm khi hoạt động toàn bộ cùng lúc. Và như khi chơi xích đu, khi một đầu này lên cao, thì đầu kia chúi xuống.
Trạng thái thần kinh như thế cho người ta tập trung dễ dàng hơn vào một việc tại một thời điểm nhất định, mà không bị phân tâm như kiểu mơ ngày.
“Điều chúng tôi đang tìm cách làm nơi đây là, một cách căn bản, dò xem sự biến đổi trong các mạng lưới của não bộ khi người ta chuyển giữa những trạng thái chú tâm này,” theo lời Tiến sĩ Josipovic.
Tiến sĩJosipovic khám phá rằng một vài vị sư và những vị tu thiền kinh nghiệm khác đã có khả năng giữ cả 2 mạng lưới thần kinh hoạt động cùng lúc trong khi thiềnđịnh – tức là, họ đã tìm ra cách để nâng cả 2 đầu xích đu (của não bộ) cùng một lúc.
Và Tiến sĩ Josipovic tin rằng khả năng kích hoạt cả 2 mạng lưới thần kinh ngoại ứng và nội ứng trong não bộ đồng thời sẽ có thể giúp các vị sư kinh nghiệm về cảm giác hòa hài của trạng thái nhất thể với môi trường (ghi chú: chữ của Thiền là, tâm và cảnh không hề khác nhau).
Tự phản chiếu
Các khoa học gia trước đây đã tin rằng mạng lưới thần kinh nội tại, tự phản chiếu trong não bộ chỉ đơn giản là một mạng trở nên tích cực khi một người không có việc gìđể tập trung tư tưởng vào.
Nhưng các nhà nghiên cứu khám phá trong thập niên qua rằng phần này của não bộ đã kích hoạt khi người đó tự nghĩ về chính họ.
Mạng lưới nội tại não bộ được biết tới trong năm 2001 khi Tiến sĩ Marcus Raichle, một nhà thần kinh học tại Đại Học Y Khoa Washington University School of Medicine tại tiểu bang Missouri, bắt đầu quét não bộ những người không được giao cho một việc nào để thực hiện.
Các bệnh nhân mau chóng chán nản, và Tiến sĩ Dr Raichle nhận ra một mạng lưới thứ nhì (trong não bộ) mà trước kia không được chú ý, đã nhảy lên hoạt động. Nhưng nhà khoa học này vẫn không rõ tại sao có sự hoạt động não bộ này xảy ra.
Các nhà khoa học khác nhanh chóng gợi ý rằng các nhân vật thí nghiệm của Tiến sĩRaichle có thể đã tự nghĩ về chính họ.
Chẳng bao lâu, các nhà thần kinh học khác, những người thực hiện các nghiên cứu bằng cách dùng các phim ảnh để kích hoạt não bộ, đã thấy rằng khi có một khoảng lặng trong phim, mạng lưới nội tại (của não bộ) bắt đầu kích hoạt – cho dấu hiệu rằng nhân vật thí nghiệm có thể bắt đầu nghĩ về chính họ để khỏi buồn chán.
Nhưng Tiến sĩ Raichle nói mạng lưới nội tại (của não bộ) thì quan trọng hơn là chuyện nghĩ về những gì mà đương sự đã ăn trong tối hôm qua.
Ông nói,“Các nhà nghiên cứu đã vật vả với ý nghĩ về cách nào chúng ta biết được chúng ta là ai và ai là chúng ta. Mạng lưới nội tại (của não bộ) tiết lộ thêm về cách mà chúng ta có thể biết như thế.”
Và Tiến sĩ Raichle thêm rằng những ai nghiên cứu về mạng lưới nội tại (của não bộ) có thể cũng giúp khám phá các bí mật vây quanh một số bệnh hỗn loạn tâm thần, thí dụ như bệnh trầm cảm (depression), bệnh tự kỷ (autism) và ngay cả bệnh lãng trí (Alzheimer’s).
“Nếu bạn nhìn vào bệnh Alzheimer’s, và bạn nhìn về có phải nó sẽ tấn công hay không vào một phần đặc biệt của não bộ, điều tuyệt diệu (khám phá nơi đây) rằng nó thực sự tấn công vào mạng lưới nội tại (của não bộ),” theo Tiến Sĩ Raichle, thêm rằng cuộc nghiên cứu mạng lưới nội tại (não bộ), như của Tiến sĩ Josipovic, có thể giúp giải thích tại sao như thế.
Cindy Lustig, phó giaó sư về tâm lý học và khoa học thần kinh tại University of Michigan, đồng ý.
Bá nói,“Đó là một mạng lưới quan trọng và chưa được nghiên cứu nhiều trong não bộ, mà như dường liên hệ nhiều tới các rối loạn thần kinh, kể cả bệnh tự kỷ và bệnh lãng trí, và hiểu cách mà mạng lưới này tương tác với mạng lưới ngoại tại (hướng về việc làm được giao) của não bộ là quan trọng. Đó kiểu như là một mảnh khác của việc ráp hình đã bị bỏ quên quá lâu.”
Tiến sĩ Josipovic đã quét não bộ của hơn 20 vị tập thiền kinh nghiệm, cả sư và ni, những vị chủ yếu tu Thiền theo phương pháp Phật Giáo Tây Tạng, để tìm hiểu thêm về mạng lưới tâm bí ẩn này.
Ông nói, cuộc nghiên cứu của ông, rồi sẽ sớm được xuất bản, kế tiếp là sẽ tiếp tục tập trung để giảỉ thích ý nghĩa về thần kinh học của trạng thái nhất thể (oneness) và tĩnh lặng (tranquillity) – mặc dù cải thiện sự hiểu biết về bệnh tự kỷ và bệnh lãng trí chắc chắn đã là một phần thưởng thêm rồi.
(Dịch từbản Anh văn: http://www.buddhistchannel.tv/index.php?id=7,10109,0,0,1,0)
Source: thuvienhoasen
Thiền chánh niệm và não bộ
(Mindful Meditation & Brain)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì. Trái lại nếu tôi tin, tôi có thể làm thì sớm muộn gì tôi cũng sẽ thành tựu như ý muốn”. Thánh Ghandi *
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
Lúc não bộ vận hành một việc, thùy não phía trước đóng vai trò lớn. Thí dụ, lúc chúng ta cần quả cam. Thùy não vùng trước trán, bên trong, báo cho các phần còn lại của não bộ để tay chúng ta đưa về phía dĩa cam, và tâm (mind) biết ta sẽ có được quả cam hay không. Cùng lúc, nếu ta lại muốn ly nước ngọt, thì não bộ tự động phân làm hai nhiệm vụ, và mỗi nửa bán cầu não tự hoạt động riêng rẽ. Tình trạng nầy làm não bộ bị yếu, khó hoàn thành nhiệm vụ cần có, vì nguồn năng lực bị chia làm hai.
.
.
.
4. Thị giác vượt trên các giác quan khác (Your vision trumps all other senses).
.
5. Hướng nội và hướng ngoại
.
.
.
.
.
.
6. Thích những người có đôi chút nhầm lẫn.
.
.
.
.
8. Thiền có thể tái tạo não bộ tốt hơn.
.
.
Trước lúc Thiền Sau lúc Thiền |
.
.
.
.