Recent Pages: 1, 2, 3, 4,
Ðêm Con thức cùng Người
Thích Tánh Tuệ
Ðêm nay con thức cùng Người
Nghìn mắt sao trời cuñg thức,
Chắp đôi bàn tay trước ngực
Lặng nhìn Ðại Tháp thiêng liêng…
” Thế Tôn! “, con thầm gọi tên
Cỏi lòng tràn dâng khát ngưỡng.
Trong thế hoa sen tọa thiền
Con tìm Người trong tâm tưởng.
Gió khuya, sương mù buốt lạnh
Muỗi vo ve… loài ong đêm.
Người ơi ! tháng ngày khổ hạnh
của Người, ai dễ làm nên.
Bóng đêm phủ trùm vạn vật
Muôn loài chìm giấc mộng say
Người đã mang về Sự Thật
Rạng ngời Ðuốc Tuệ trên tay.
Nhân lọai nghìn đời quy ngưỡng
Muôn sinh từ độ nương nhờ.
Người đến khơi nguồn chân phúc
Cuộc đời đep tựa bài thơ.
Nghìn thu.. dẫu khô dòng mực
Cuñg không cùng tận ơn Người.
Ðêm nay con về thức trọn
Dâng niềm Tôn Kính đầy vơi…
Bidggaya-India
Thầy Pháp Hòa giảng tại nơi
Đức Phật nhập Niết Bàn
Uploaded by Phap thoai TPH
Thời gian và không gian
Có một lần tôi đi trên một chiếc xe du lịch thuê được ở thành phố, cùng đi với các vị khác để viếng động Ajanta. Đó là một dãy núi mà người xưa đã đục để làm thành nhiều tu viện từ thế kỷ thứ II tới thế kỷ thứ IX. Người ta đục núi ra và trong đó có Phật điện, thiền đường, tăng xá, v.v… đủ hết. Trong khi làm việc, để có đủ ánh sáng, người ta đã dùng những tấm kiếng để đưa ánh sáng vào trong. Trong động có những tượng Phật và những tác phẩm nghệ thuật khác rất đẹp. Tôi đã từng chạm vào những cái giường bằng đá trong những cái liêu của các thầy để có cảm tưởng mình sống vào thế kỷ thứ II, thứ III Tây lịch. Cái giường bằng đá đó cũng do con người đục núi làm ra. Trên đường đi Aurangabad, trời rất nắng. Cố nhiên, khi đi xe du lịch là mình muốn tới nơi sớm chừng nào hay chừng đó. Đi tới một chỗ đó thì mình gặp một chiếc xe bò. Chiếc xe bò đi cà rịch cà tang, cà rịch cà tang, rất chậm. Con đường rất khúc khuỷu. Con bò kéo chiếc xe không vội vã gì hết. Người đánh xe cũng vậy. Anh ta ở trần. Anh ta ngồi rất thoải mái trên chiếc xe bò. Anh ta che đầu bằng một nhành cây. Anh ta đi nhưng không có ý muốn tới sớm như người lái xe du lịch. Người lái xe du lịch từ thành phố tới, và cố nhiên muốn đưa khách tới nơi tham quan càng sớm chừng nào càng tốt chừng đó, để lấy tiền và về đi làm chuyến khác. Vì vậy nên trong người lái xe có cái thao thức muốn đi mau để tới sớm. Nhìn ra, tôi thấy chiếc xe bò do một con bò kéo và có một người ngồi ở trần, đang che nắng bằng một nhành cây đầy lá. Điều này chứng tỏ là con bò không có niềm thao thức muốn đi cho mau tới mà người ngồi đánh xe bò cũng vậy. Tôi thấy rõ ràng có hai thời gian, hai thế giới hoàn toàn khác nhau. Người đánh xe và con bò, cả hai hoàn toàn không hối hả. Trong khi đó, người lái xe du lịch rất hối hả muốn tới. Chúng ta thấy rất rõ hai hình ảnh đó đại diện cho hai cái thấy về thời gian. Thời gian khác thì không gian cũng khác. Người lái xe du lịch và anh nông dân đang ngồi trên chiếc xe bò, hai người đang sống trong hai thế giới hoàn toàn khác nhau. Những ước mơ, những tính toán, không gian với thời gian, hoàn toàn khác nhau. Và người này không muốn trở thành người kia, người kia không muốn trở thành người này. Ai hạnh phúc hơn ai? Chưa biết! (trích đoạn bài Thiên Thu trong khoảng khắc .)Thích Nhất Hạnh
Đạo Phật Đối Với Đời Sống Con Người
LÊ HỮU TUẤN
Đạo Phật xuất hiện trên thế giới có chiều dài lịch sử nhiều ngàn năm và phát triển ở Việt Nam cũng gần hai mươi thế kỷ. Từ trước đến nay đã có rất nhiều tài liệu và công trình nghiên cứu để lý giải, tìm hiểu sâu sắc về đạo Phật được công bố và xuất bản. Tuy nhiên do tính phức tạp của vấn đề, những nghiên cứu trên vẫn còn nhiều điều cần phải bàn tiếp. Để góp phần làm sáng tỏ hơn những vấn đề Phật học then chốt, người viết bài này xin được trình bày những vấn đề sau: 1.Đức Phật và con người. 2. Trí tuệ từ bi và đại lực.
1. Đức Phật và con người
Đạo Phật được khai sáng bởi con người để phục vụ con người. Đạo Phật lấy con người làm gốc. Phật giáo đã làm thỏa mãn những nguyện vọng cao quý và sâu xa của con người, và nó còn có thể chịu đựng sự căng thẳng và nhiễm ô của đời sống hàng ngày, nó giúp họ lúc tiếp xúc với đồng loại, ngoài ra còn đưa ra một mục đích sống. Phật giáo không gieo rắc nỗi sợ hãi trong lòng người. “Cái tốt sẽ mang đến cái tốt, và cái xấu sẽ đem đến cái xấu”, “Mỗi hành vi đều có hậu quả của nó” (every action has its reaction).. Đó là những quy luật tự nhiên.. Phật giáo hoàn toàn phù hợp với quy luật đó, theo đó con người “Gieo nhân gì thì sẽ gặt quả nấy”. Mọi khổ lạc của con người trong cuộc sống này không phải do ảnh hưởng từ bên ngoài mà là do hành động từ chính con người tạo ra trong thời hiện tại hoặc trong những tiền kiếp hoặc gần hoặc xa.
Tinh thần nhân bản của đạo Phật được biểu lộ không những ở giáo lý, mà còn ở thái độ sống của con người. Đức Phật không phải là một nhân vật huyền thoại mà là bậc Đại Đạo Sư đã từng sống thật trong thế gian này.
Đức Phật không bao giờ tìm cách tự xưng mình là một bậc siêu nhân mà là một con người đã chứng đắc chân lý, cái bí mật của cuộc sống và cái nguyên nhân thật sự của hạnh phúc và khổ đau. Từ ngữ Phật (Buddha) chỉ có nghĩa là con người giác ngộ. Phật là con người đã giác ngộ chân lý và đem chân lý ấy giác ngộ cho kẻ khác để mong sự nghiệp giác ngộ viên mãn. Ngày nay, bậc Đạo sư này không những được tôn vinh bởi hàng trăm triệu người tín đồ mà còn được mọi người có văn hoá và kiến thức trên thế giới này kính trọng. Bậc giải thoát này cho ta niềm phấn khởi về đời sống cao thượng, đã an ủi con người vượt qua mọi khổ đau. Người đã giúp đỡ những kẻ nghèo khổ bị lãng quên. Người làm tăng thêm sự cao quý cho cuộc sống những kẻ mê lầm và làm trong sạch cuộc sống suy đồi của những kẻ phạm tội. Người khuyến khích những kẻ yếu hèn, liên kết những người chia rẽ, khai ngộ kẻ si mê, soi sáng kẻ theo thuyết thần bí, dẫn dắt kẻ ngu tối, nâng cao phẩm giá kẻ hạ liệt và tôn vinh người cao thượng. Cả người giàu lẫn kẻ nghèo, cả Thánh nhân và tội phạm đều tôn kính Người như nhau. Những minh quân cũng như bạo chúa, những vương tôn công tử nổi tiếng và vô danh, những nhà triệu phú hào phóng lẫn keo kiệt, những học giả khiêm tốn lẫn cao ngạo, những người bần cùng, những người ăn xin bị chà đạp .v.v. tất cả đều được lợi ích nhờ lời dạy tràn đầy lòng từ bi và trí tuệ của Người ..
Tấm gương cao cả của Đức Phật là một nguồn cảm hứng cho tất cả mọi người . Lời dạy về hòa bình và lòng khoan dung của Người đã được tất cả mọi người đón nhận với niềm hân hoan và không ngừng làm lợi ích cho bất cứ ai có cơ hội nghe thấy được và thực hành nó. Ý chí sắt đá, trí tuệ, tình thương, lòng từ bi vô bờ, vô ngã, sự thanh tịnh hoàn toàn, những pháp môn gương mẫu được sử dụng để truyền bá giáo lý và thành quả tối hậu của Người –tất cả những yếu tố đó đã thúc đẩy bao con người trên thế giới này tôn vinh đức Phật như là một bậc Đạo sư tối thượng. Đức Phật đã hy sinh thú vui của trần gian vì nỗi khổ của con người để đi tìm chân lý rồi vạch ra con đường thoát khổ. Người là một nhà khoa học hoàn hảo trong lĩnh vực cuộc sống, hoàn hảo đến độ lời dạy của người đã được khẳng định là giáo lý duy nhất có tính đạo đức. Đức hạnh của Người là biểu trưng tối thiện. Người là khuôn mẫu toàn bích cho mọi đức tính mà Người đã thuyết giảng. Cuộc sống của Đức Phật không bị một vết ô nhiễm nào cả.
Đức Phật đã chỉ ra con đường đưa đến hòa bình, hạnh phúc và cứu độ cho con người. Con đường của Người thật bao dung rộng rãi, hợp lý, có thể hiểu được và hướng đến giác ngộ. Giáo lý của Người có thể đóng góp phần tốt đẹp nhất vào hạnh phúc con người. Lời dạy của Đức Phật soi sáng con đường, nhờ đó con người có thể vượt thoát khỏi sự khổ đau để đi đến một cuộc sống tràn đầy ánh sáng, thương yêu yên bình và hạnh phúc .
Dạy đạo giải thoát cho con người, đức Phật là một người thầy, một người bạn, sống cùng với con người, hiểu biết con người và thắm thiết tình người. Con người khổ đau vì con người sống xa bản tính, sống ngược bản tính. Con người không ý thức được thực thể của chính mình, không hiểu được mình là gì. Con người không có được một nhận thức rõ rệt về hiện hữu và bản chất của hiện hữu. Đức Phật đã khám phá trên bước đường hành trì những phương pháp giúp Người đi đến sự thực hiện giá trị và bản chất của hiện hữu. Tiếp xúc thẳng với dòng sinh lực mầu nhiệm ấy, tâm linh Người đột nhiên trở thành cao cả, sáng tỏ, nhân cách của Người trở thành siêu tuyệt vĩ đại. Và trên lịch sử, con người đã trông thấy dòng sinh lực nhiệm màu kia hiển lộ sung mãn và linh hoạt nơi con người Đức Phật.
Suốt hơn hai nghìn năm trăm năm lịch sử, đạo Phật luôn gắn với con người, khai mở cho con người một nguồn sống đầy tính nhân bản. Đức Phật là người khơi mở nguồn sống ấy, khơi mở chứ không phải là hoá hiện và tạo dựng. Chính cá nhân con người mới quyết định số phận và tiền đồ của mình, người có nhân cách độc lập, tự chủ (không lệ thuộc vào bất cứ ai). Có nhân cách độc lập tự chủ mới có thể nói đến lòng tự tôn và tự tin. Không có một đấng thần linh nào có quyền năng cứu rỗi được con người. Phật tử, theo lời Phật dạy, phải tự mình thắp đuốc lên mà đi. Con người phải tự cứu lấy mình. Chúng ta tin rằng bất cứ ai cũng có thể hưởng được niềm hạnh phúc thiên giới nếu họ thực hiện lối sống chân chính.
Đạo Phật như là ngọn hải đăng hướng dẫn con người đến hoà bình, an lạc và hạnh phúc. Con người phải đi đến mức độ nhận thức rằng sự phát triển về đạo đức theo lời Phật dạy sẽ là điều kiện cần thiết để đem lại an lạc và hạnh phúc cho con người.
2.Trí tuệ từ bi và Đại lực
Mục đích của sự thực hành đạo Phật là để đạt tới nhận thức sáng tỏ về thực tại (Trí), tình thương rộng lớn với mọi người và mọi loài (Bi) và ý chí bền vững để thành tựu đại nguyện giúp đời (Dũng). Đạo Phật không phải là một tôn giáo đặt con người và số phận của họ dưới sự điều khiển của thần linh, thượng đế. Đạo Phật đòi hỏi người Phật tử thực hiện trí tuệ, tình thương và ý chí nơi bản thân mình và ngoài xã hội. Đạo Phật là đạo giải thoát và giác ngộ. Chỉ có trí tuệ (Panna) mới là phương tiện duy nhất đưa con người đến bờ giải thoát và giác ngộ .
Trong kinh Xà Dụ, Đức Phật từng dạy: “Nhờ tuệ quán… nên được giải thoát, trong sự giải thoát khởi lên sự hiểu biết: “ta đã được giải thoát”. Vị ấy biết: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa” (Trung I , 138b). Vị hành giả cần phải tuệ tri: “Đây là khổ”; “Đây là khổ tập”; “Đây là khổ diệt”,”Đây là con đường đưa đến khổ diệt” “Đây là những lậu hoặc”; “Đây là lậu hoặc tập khởi”; “Đây là những lậu hoặc đoạn diệt”; “Đây là con đường đưa đến lậu hoặc diệt”. Nhờ tuệ tri như vậy, hiểu biết như vậy, tâm của vị ấy thoát khỏi Dục lậu, thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô minh lậu. Đối với tự thân đã giải thoát như vậy, khởi lên sự hiểu biết:”Ta đã giải thoát”. Vị ấy biết “Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, sau đời hiện tại, không có đời sống nào khác nữa” (Trung I , tr.279)
Đạo Phật là một tôn giáo trước hết dựa vào lý trí của con người. Nó xuất hiện như là một đạo lý dựa vào lý trí. Trí tuệ chiếm vị trí then chốt trong mọi lời dạy của Đức Phật. Vai trò của trí tuệ được Đức Phật dạy :
“Tất cả hành vô thường.
Với tuệ, quán thấy vậy,
Đau khổ được nhàm chán
Chính con đường thanh tịnh
Tất cả hành khổ đau
Với tuệ, quán thấy vậy
Đau khổ được nhàm chán
Chính con đường thanh tịnh
Tất cả pháp vô ngã
Với tuệ, quán thấy vậy
Đau khổ được nhàm chán
Chính con đường thanh tịnh
(Pháp cú 277, 278, 279)
“Thấy khổ và khổ tập
Thấy sự khổ vượt qua
Thấy đường Thánh tám ngành
Đưa đến khổ não tận”
(Pháp cú 191)
“Mắt thịt mắt chư thiện
Vô thượng mắt trí tuệ
Cả ba loại mắt ấy
Được bậc vô thượng nhân
Đã tuyên bố trình bày…
Từ đây trí khởi lên
Tuệ nhãn là tối thượng
Ai chứng được mắt ấy
Giải thoát mọi khổ đau”
(Phật thuyết như vậy, tr.457-458)
Con người muốn thoát khỏi sự đau khổ và sợ hãi thì hãy luyện tập trí tuệ và từ bi. Đạo Phật coi trí tuệ như một thanh gươm – gươm trí tuệ và chỉ nó mới chặt được kẻ thù – đó là Vô minh. Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi là hình ảnh của tuệ giác đại trí và biện tài vô ngại (kinh Duy Ma). Như vậy, là đạo Phật đặt vai trò của trí tuệ, chiếm một vị trí then chốt. Chỉ có trí tuệ con người mới diệt được khổ, đem vui cho mọi loài, đưa đến an lạc và hạnh phúc .
Mặc dù trí tuệ rất cần thiết để đạt đến giải thoát, chính nó cũng sẽ không đủ. Nó phải kết hợp với từ bi. Từ bi có thể so sánh như một chiếc xe chở con người đến ngưỡng cửa giải thoát, nhưng chìa khóa thật sự mở cửa là trí tuệ. Lòng từ bi đem đến sự hạnh phúc lớn nhất cho con người, đơn giản là vì lòng từ bi vượt lên trên tất cả những cái khác. Nhu cầu tình thương nằm trong sự sống còn của con người. Đó là kết quả của sự phụ thuộc vào nhau không thể thiếu được, khả năng và kỹ năng của một cá nhân có đó, nhưng để họ sống riêng lẻ thì họ sẽ không tồn tại. Sự phụ thuộc lẫn nhau là một quy luật cơ bản của tự nhiên. Không chỉ những sinh vật cao cấp mà những côn trùng nhỏ nhất đang sống trên hành tinh này đều phải nương tựa vào nhau để tồn tại. Chính vì thế sự hiện hữu của con người quá phụ thuộc vào sự giúp đỡ của người khác đến nỗi nhu cầu tình thương của con người là yếu tố quyết định cho sự tồn tại của họ. Vì vậy, ở bất cứ nơi nào, lúc nào, tình thương là dinh dưỡng quan trọng nhất trong tất cả .
Chúng ta đã biết con người từng hiện hữu hàng trăm ngàn năm nay.. Ngày nay, dân số thế giới đang tăng vọt hơn bao giờ hết, dù các cuộc chiến tranh vẫn còn. Điều này đã nói lên rằng lòng từ bi luôn trội hơn các thứ khác. Con người dù đẹp, xấu, địa vị xã hội khác nhau nhưng ai cũng muốn hạnh phúc và không muốn khổ đau. Hơn nữa, quyền của họ là vượt qua những khổ đau và đạt được hạnh phúc. Đến đây, chúng ta có thể nhận ra rằng tất cả mọi người đều bình đẳng về mưu cầu hạnh phúc, và họ có quyền chiếm được nó. Nhận ra điều đó lòng từ bi sẽ phát triển. Lòng từ bi là muốn giúp người thoát khỏi cảnh chướng ngại khổ đau. Lòng từ bi là đức tính từ ái, hiền hoà, yên bình trìu mến, cảm thông… có thể nói lòng từ bi là cái gì làm cho lòng ta êm dịu, là lòng mong ước chân thành cho tất cả mọi người sống an lành vui vẻ là động lực làm cho tâm rung động trước sự đau khổ của người khác. Như vậy, lòng từ bi là cái gì quá to lớn, quá mạnh mẽ và quá vĩ đại. Khao khát thực hành hạnh từ bi là để giúp đỡ người khác, quan tâm vì sự bình yên của kẻ khác, phục vụ họ, kết bạn nhiều hơn. Nếu quên hạnh phúc của người khác, thì chính bạn cũng theo thời gian đó mà bị người khác lãng quên.
Trong thời đại ngày nay, khi mà con người có tiền bạc, quyền lực, khi mọi sự trên đời này diễn ra tốt đẹp thì con người thường có cảm giác ít cần đến bạn. Nhưng khi địa vị và sức khỏe suy giảm, con người nhanh chóng nhận ra sự cần thiết của những người bạn. Tình cảm con người là quan trọng hơn hết và hành tinh nhỏ bé này chính là mái nhà chung cho tất cả con người. Một khi chúng ta xem mọi người trong mái nhà này là anh em thì cũng dễ dàng cởi bỏ đi những động cơ cao ngạo, chia rẽ và ta cũng dễ dàng lánh xa sự lừa dối và lạm dụng giữa người với nhau. Chìa khoá đối với một thế giới yên bình và hạnh phúc là sự lớn mạnh của lòng từ bi. Con người ngày nay, hơn bao giờ hết đang cần đến lòng từ bi. Chỉ có từ bi mới là chiếc xe chở con người tới bờ giải thoát. Từ bi là động lực làm cho tâm rung động trước sự đau khổ của kẻ khác, là cái gì thoa dịu lòng đau khổ của người.
Đạo Phật là đạo giải thoát đưa con người vượt qua bể khổ luân hồi với kiếp nhân sinh. Trong đau khổ con người đủ tâm trí và can đảm để chế ngự nó. Ý chí vượt qua mọi khổ đau là một năng lực tinh thần, sức khỏe của nội tâm, là sự nỗ lực không ngừng sự hoạt động tích cực của tâm trí và mọi hành động nhằm vào mục đích giải thoát cho mình và cho kẻ khác. Con người cần phải có ý trí để vượt qua mọi trở ngại. Chướng ngại, nghịch cảnh chỉ có thể làm cho người Phật tử thêm nghị lực và ý chí phấn đấu. “Không nên sống thụ động trong lo âu sợ sệt hay chờ mong một tha lực nào đến cứu vãn. Phải luôn luôn kiên trì, phấn đấu liên tục, cho đến kỳ cùng, để tự giải thoát lấy ta”.
Có thể thấy rằng trí tuệ, từ bi hiệp với ý chí nơi bản thân mình ngoài xã hội đã tạo thành một năng lực vô cùng trọng yếu có thể hoàn tất mọi việc để giải thoát khỏi khổ đau đưa con người đạt đến an lành và hạnh phúc. Trí tuệ từ bi hiệp với ý chí sắt đá là những phẩm chất cao quý của người Phật tử, nó giúp con người trở nên toàn thiện và có được một lối sống an bình và hạnh phúc. Nếu mỗi người đều cố gắng với ý chí sắt đá đem trí tuệ và tâm từ bi phục vụ con người, thì thế giới này sẽ trở thành một thiên đàng mà tất cả chúng sinh đều được sống an vui trong tình huynh đệ và mỗi người trở thành một công dân lý tưởng trong một thế giới hòa bình.
Trong phạm vi hạn hẹp của bài viết này, chúng tôi chỉ gợi ý vài nét sơ lược của đạo Phật với con người và một số phẩm chất cần thiết của người Phật tử. Trong kho tàng giáo pháp vô cùng phong phú của Đức Phật để lại những giá trị vượt thời gian và không gian, chúng ta có thể khẳng định rằng ở thế kỷ 21, những tư tưởng về từ bi, trí tuệ với ý chí sắt đá của học thuyết Phật giáo vẫn tiếp tục là chiếc chìa khoá mở ra hướng giải quyết tốt đẹp cho loài người, xây dựng một thế giới phát triển, thanh bình an vui thực sự, tràn đầy tinh thần nhân ái, như nó đã từng thực hiện trong nhiều ngàn năm lịch sử.
Nguồn: Đạo Phật Ngày Nay
Đức Phật: con người của mọi thời đại
TT. Thích Thiện Bảo
Ngài không cho rằng chỉ thuần có đời sống tinh thần ; mà phải làm sao quân bình giữa đời sống vật chất và tinh thần . Một mặt Phật giáo khuyến khích con người cần có sự tiến bộ phát triển về vật chất, mặt khác Ngài cũng nhấn mạnh đến sự phát triển về đạo đức và tâm linh để có một xã hội hoà bình an lạc.
Gần 25 thế kỷ trôi qua, Đức Phật : một con người có thật trong lịch sử nhân loại – vẫn còn để lại những dấu ấn đầy tính nhân bản với những lời dạy của Ngài làm cho con người có nhiều suy tư về vị giáo chủ đã tuyên bố : “Con người và chỉ có con người mới có thể thực hiện những hoài bão lý tưởng hưóng đến Phật quả”. Chúng ta có thể gọi Đức Phật là một con người tuyệt vời trong nhân tính và cũng chỉ có Đức Phật là vị giáo chủ duy nhất trên hành tinh chúng ta khẳng định vị trí của con người : “Các Người là nơi nương tựa của chính mình, là hòn đảo chứ không còn nơi nương tựa nào khác”. Ngài luôn luôn cổ súy tinh thần tự lực của mỗi người để tìm lấy sự giải thoát cho chính mình và điều này như là một sợi chỉ xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống giáo lý của Phật trong hơn 40 năm hoằng pháp lợi sanh.
Hôm nay chúng ta nhìn lại nền giáo lý của Đức Phật trong hoàn cảnh các dân tộc trên thế giới bước vào thiên niên kỷ mới, mọi người không phân biệt Âu, Á, màu da, chủng tộc đều mong muốn có một xã hội công bằng, văn minh, tiến bộ ; con người không còn khổ đau bệnh tật và đói nghèo. Điều này không phải của riêng ai mà của cả toàn nhân loại trên hành tinh này đều hướng về con đường lý tưởng đó. Trong dòng chủ lưu đó con người là chủ nhân ông quyết định và điều này lại khẳng định một lần nữa vai trò của nền giáo lý Đức Phật không phải là vô ích, nếu không muốn nói là giáo lý đó có những tư tưởng tiến bộ để con người tự xây dựng một xã hội mà con người đang đi tìm giải pháp.
Đức Bổn Sư Thích Ca tên là Sidhartha họ Gotama, ra đời cách đây hơn 2.500 năm tại Bắc Ấn Độ vào TK VI trước Tây lịch. Thân phụ là Suddhodana (Tịnh Phạn) cai trị vương quốc của dân tộc Kàkyas (Nepal ngày ngay),mẹ là Hoàng hậu Maya.Theo tục lệ lúc bấy giờ Ngài kết hôn với Công chúaYasodharà(Da-du-đà-la).Là một Thái tử đương triều sống trong cung điện đầy đủ tất cả những vật chất xa hoa, nhưng khi va chạm với đời sống bình thường thực tại, Ngài nhận thấy khổ đau của kiếp người,Ngài quyết định bỏ lại sau lưng uy quyền và địa vị để tìm giải pháp cứu mình và cứu người.
Trong 6 năm làm một nhà khổ hạnh, Đức Phật đã đi khắp thung lũng sông Hằng tìm học những vị thầy nổi tiếng lúc bấy giờ,nhưng Ngài thất vọng vì họ không chỉ dạy được gì mà Ngài muốn đến. Đức Phật đã từ bỏ tất cả những phương pháp mà Ngài đã học,đi theo con đường riêng của Ngài. Và một hôm Ngài phát đại nguyện dưới cội cây bồ đề trên bờ sông Neranjarà(Ni Liên Thiền) tại Buddha-Gaya(Bồ Đề Đạo Tràng) xứ Bihar ngày nay: ” Dù thân ta có tan thịt ta có nát, nếu không tìm ra đạo,ta nguyện không rời chổ ngôì nầy”.
Từ nơi đây Ngài thực sự đạt được đỉnh cao của trí tuệ, thành bậc Giác ngộ, chuyển bánh xe Chánh pháp đem lại lợi lạc cho con người với những phương pháp mà Ngài đã tìm ra được ; và cũng từ đó những phương pháp mà Đức Phật đưa ra như là những phương thuốc trị những căn bệnh mà loài người đang gặp phải : “Hỡi các Tỳ kheo, có hai thứ bệnh. Hai bệnh ấy là gì ? Bệnh thể xác và bệnh tinh thần. Có những người hưởng sự vô bệnh và thể xác trong một năm, hai năm…cả đến trong một trăm năm hay hơn nữa. Nhưng này các Tỳ kheo, hiếm thay trong thế gian này là những người hưởng được sự vô bệnh về tinh thần, ngay cả trong chốc lát, trừ phi những người thoát khỏi sự xấu xa ô uế” (chỉ cho những vị đắc A-la-hán). Hình ảnh giáo lý và nhân cách của Ngài vẫn là bức thông điệp nhân bản muôn đời gởi đến cho nhân loại.Những lời dạy của Đức Phật đã thành những điệp khúc bất tuyệt vượt ra ngoài không gian và thời gian, những lời dạy đó nhằm vào tinh thần giải thoát cho con người thoát khỏi khổ đau bởi những trói buộc của phiền não và vạch ra con đường để cho những ai muốn thoát ra khỏi sự trói buộc của kiếp nhân sinh. Có người cho rằng giáo lý của Phật dạy quá cao siêu khó có thể ứng dụng trong đời sống hàng ngày trong nền phát triển KHKT hôm nay ; vì nếu muốn trở thành những người Phật tử phải từ bỏ việc này, ngăn ngừa việc khác trong khi đời sống bình thường của con người ngày nay thực hiện vì “cơm, áo, gạo ,tiền” để mưu sinh cho gia đình và cho chính bản thân họ. Đó là một quan niệm sai lầm về giáo lý Đức Phật.Thông thường phần đông thường đi đến kết luận một cách vội vã, chủ quan ,chỉ hiểu được một khía cạnh thiên lệch sau khi đọc một quyển kinh hay một cuốn sách Phật của một tác giả nào đó mà lại không hiểu hết những giáo lý cốt lõi của Đức Phật. Điều này trong thời điểm này hay trong những thời điểm khác, ở Việt Nam hay một số quốc gia trên thế giới, đã từng có những quan niệm sai lầm của một số người khi đặt bút viết về giáo lý của Phật hay về những vấn đề liên quan đến Phật học, đó là chưa kể những người cố tình bóp méo hay gán ép cho Đức Phật và giáo lý của Ngài, với ý đồ nào đó(?) . Ở đây chúng ta không phải biện minh cho những kiến giải hơn thua phải quấy của những người con Phật, mà chúng ta xác định tinh thần Phật dạy như là quan niệm sống thực nghiệm giúp con người trong thời đại của Ngài và ngay trong thời điểm hôm nay và mai sau. Giáo lý đó là một chân lý vượt ra ngoài phạm trù của thời gian và cả không gian, và những lời dạy của Đức Phật thực sự có ích cho con người. Nền giáo lý của Đức Phật không phải chỉ dành riêng cho người xuất gia hay tại gia tu theo Phật, mà đó là của mọi người muốn ứng dụng nó vào đời sống tâm linh,mà không có sự phân biệt quy y hay chưa quy y theo Phật .
Tất cả mọi người không phải ai cũng bỏ cuộc đời, đi vào chùa hay tu viện xa lánh cuộc đời, ẩn dật chốn nào đó của núi rừng, am cốc. Đạo Phật dù có thuần khiết cao cả đến đâu cũng sẽ trở thành vô dụng đối với mọi người vì không “đại chúng hóa”vì họ không thể áp dụng đựơc trong đời sống hàng ngày.Trái lại khi mọi người hiểu đúng tinh thần Phật dạy, xem như là một triết lý sống, đem áp dụng vào cuộc đời mà không phải xa lánh cuộc đời thì đó mới thực sự là một tôn giáo có lợi ích thiết thực. Như vậy rõ ràng Đức Phật và giáo lý của Ngài không bao giờ khuôn biệt trong một mô thức bắt buộc nào mà chỉ khuyên mọi người nên áp dụng tu tập thực hành Pháp trong điều kiện và hoàn cảnh mà mình đang sống, không khuyến khích con người chạy đi tìm cầu, điều kiện khác mà con người chưa có thể thực hiện được. Trong kinh Phật có nhiều câu hỏi của cư sĩ Vacchagotta được đặt rá: “Bạch Đức Thế Tôn, có người nam và nữ nào đệ tử của Phật sống đời sống thế tục thực hành giáo lý của Ngài mà có hiệu quả, mà đạt được những trạng thái tâm linh cao siêu không ?”. Đức Phật đã khẳng định không phải 100 hay 500 mà còn nhiều hơn thế nửa. Qua đó cho chúng ta một quan niệm về Đức Phật và giáo lý của Ngài.
Ở thời đại ngày nay khi kinh tế thị trường như là một yếu tính của thời đại và nó được xem như một nhu cầu phát triển xã hội loài người, vậy giáo lý của Phật dạy có ảnh hưởng gì không trong sự tu tập? Chúng ta hãy xem một đoạn kinh Đức Phật có đề cập đến nền kinh tế : “Một hôm Đức Phật bảo ông Cấp Cô Độc – một thương gia danh tiếng: “Này cư sĩ, sống thường nhật có 4 thứ hạnh phúc:
1/Sở hữu lạc : sự thọ hưởng bảo đảm về kinh tế hay tài sản kiếm được bằng phương tiện chính đáng.
2/ Thọ dụng lạc : Tiêu dùng tài sản đó một cách rộng rãi,cho chính mình ,cho gia đình bà con,bè bạn, trong những việc công đức.
3/ Vô trái lạc : Không bị nợ nần đeo bám.
4/ Vô tội lạc : Sống một đời sống trong sạch, không phạm những điều ác trong công việc mưu sinh ngoài xã hội”.
Qua những điều nêu trên cho chúng ta thấy Đức Phật đã có những cái nhìn thấu đáo về nền kinh tế trong thời kỳ của Ngài khi dạy một cư sĩ sống làm sao để có hạnh phúc, Ngài không cho rằng chỉ thuần có đời sống tinh thần ; mà phải làm sao quân bình giữa đời sống vật chất và tinh thần . Một mặt Phật giáo khuyến khích con người cần có sự tiến bộ phát triển về vật chất, mặt khác Ngài cũng nhấn mạnh đến sự phát triển về đạo đức và tâm linh để có một xã hội hoà bình an lạc.
Ngày nay con người sống trong hận thù,sợ hãi lo âu và khủng hoảng, nghi ngờ đố kỵ nhau một cách căng thẳng. Nền công nghệ KHKT phát triển một cách chóng cả mặt mày. Đứng trước sự sợ hãi do chính mình tạo ra, bao nhiêu thiên tai thảm họa đang đè nặng lên vai con người trong thiên niên kỷ mới phải khắc phục ; thông điệp của Đức Phật dù cách đây hơn 25 thế kỷ, nhưng khi nhìn vô số lời dạy còn lưu lại cho đến hôm nay, mọi người con Phật đều có thể xem như là kim chỉ nam trong việc xây dựng đời sống cộng đồng. Nơi tiềm tàng trong nền giáo lý và nhân cách của Phật mọi người có thể rút ra một bài học ứng xử giúp con người tìm về chính mình, làm chủ vận mệnh tương lai do mình tạo ra. Đó là tình thương, khoan hồng, rộng lượng , thông cảm, tôn trọng đối với mọi sự sống hãy vứt bỏ đi lòng ích kỷ, hận thù và bạo động… Nhân loại đang sống trong bản lề của một thiên niên kỷ mới cũng sống và mong ước thế giới không còn hận thù khổ đau mà chúng ta hằng mong muốn : “Tâm tịnh quốc độ tịnh”.Trước khi nhập Niết Bàn Đức Phật đã ân cần tuyên bố: “Bất luận Chơn Lý nào mà Như Lai đã truyền dạy, các người hãy thực hành một cách khéo léo,trao dồi phát triển đầy đủ, để đời sốngthiêng liêng được duy trì trường tồn vĩnh cửu,vì tình thương chúng sanh,vì sự tốt đẹp và hạnh phúc của nhiều người…”. Những lời nầy làthông điệp muôn đời của tình thương yêu nhân loại gởi đến cho toàn thể mọi người khắp hành tinh đang thực hiện lời dạy của Ngài, hãy vì hạnh phúc của nhiều người, hãy xây dựng hạnh phúc cho mình cho người.
Đức Phật và con người hiện đại
HT. Thích Minh Châu
Với bức thông điệp về Khổ đế và Diệt đế, Đức Phật chỉ cho chúng ta căn bệnh trầm kha đè nặng trên kiếp sống con người hiện đại và nói lên cho chúng ta rõ các căn bệnh ấy đều có thể diệt trừ ngay trong hiện tại.
(Diễn văn đọc tại Đại học Vạn Hạnh trong dịp lễ Phật Đản 2.517 (17-5-1973) tại Viện Đại học Vạn Hạnh)
Kính thưa quý vị,
Hôm nay chúng ta làm lễ Phật đản 2.517. Hơn 2.500 đã trôi qua, từ khi bức thông điệp của Đức Phật được nói lên tại vườn Lộc Uyển, bức thông điệp vì con người và cho con người, “vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì an lạc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài người”. Và con người của hơn 2.500 về trước cũng như con người hiện tại, đã mang thân phận con người, đã sống đời sống con người, thì những căn bệnh trầm kha đã đè nặng trên kiếp sống con người 25 thế kỷ về trước, cũng vẫn đè nặng lên kiếp sống con người hiện tại, nếu không phải là tinh vi hơn, phức tạp hơn và do vậy đau đớn hơn, tê tái hơn.
Khi Đức Phật nói lên sự thật thứ nhất, Khổ khổ, Dukkhadukkhatà, sanh là khổ, già là khổ, chết là khổ, cầu không được là khổ, thương phải xa lìa là khổ, ghét phải gặp gỡ là khổ. Ngài chỉ nói lên cho chúng ta thấy thực trạng của con người, một thực trạng liên tục từ hơn 2.500 năm lại đây, gần như là không biến đổi, chỉ có trầm trọng, đau đớn và tinh vi hơn. Ngày này, chúng ta có nhiều bác sĩ bao nhiêu, chế tạo ra nhiều được phẩm bao nhiêu, thì hình như con bệnh càng nhiều thêm bấy nhiêu, chứng bệnh càng nan y bấy nhiêu, như để mỉa mai tất cả sự tiến bộ của Y học rất đáng khích lệ của con người trong hơn 25 thế kỷ lại đây. Khi Đức Phật nhận thức thêm một thực trạng nữa của đau khổ của con người, aniccatà dukkha, vô thường là khổ. Đức Phật chỉ nói lên tính cách giả tạm, biến hoại mỏng manh kiếp sống con người, quá khứ, hiện tại và tương lai. Với những phát minh kinh khủng của khoa học của chiến tranh, với những vận chuyển giao thông càng nhanh chóng tân kỳ, định lý vô thường lại càng chứng minh một cách linh động, một cách khủng khiếp từng giờ từng phút. Bạn của chúng ta đang vui cười hôm nay, ngày mai đã là người thiên cổ. Nhà cửa cao lớn, phố xá trù mật hôm nay, một mai một chiều đã trở thành đống tro tàn trước mắt chúng ta do chiến tranh tàn khốc gây nên. Con người cảm thấy định lý vô thường được áp dụng với tốc độ nhanh chóng hơn, song song với nhịp độ ngày càng nhanh chóng của cuộc sống. Con nít ngày nay đã lớn lên rất mau, khôn ngoan rất mau để mà lập gia đình rất mau, và để mà chết cũng rất mau. Và chúng ta có thể nói, không ai có ý thức rõ rệt định lý vô thường hơn tuổi trẻ Việt Nam, sinh ra trong chiến tranh, lớn lên trong chiến tranh, trưởng thành trong chiến tranh và biết bao nhiêu tuổi trẻ đã bỏ mình vì chiến tranh.
Nỗi đau khổ của kiếp người gắn liền, dính chặt vào sự hiện diện của con người trên cuộc đời và trong cuộc đời. Và do vậy, Đức Phật đã nói lên một loại nỗi khổ nữa, tức là pancupàdànakkhadhà, dukkhà, năm thủ uẩn là khổ. Thời hiện tại, nói theo triết gia Heidegger trong các tác phẩm của ông, là thời đại của điêu linh thống khổ vì đêm tối đã bủa vây nhân loại. Theo Jaspers, thì chúng ta đang sống trong tình trạng nghịch lý kỳ dị: thay vì giải phóng con người, kỹ thuật lại tròng lên con người một ách nô lệ mới, tinh vi và tàn khốc hơn. Vấn đề trước đây của con người khi mới xuất hiện trên trái đất, là chinh phục những sức mạnh mù quáng hung bạo của thiên nhiên, để chinh phục và sở hữu hóa hoàn toàn thế giới, nhưng khi đã sở hữu hóa được hoàn toàn thế giới rồi, con người lại đánh mất chính thế giới độc đáo của nhân cách mình, thế giới sinh hoạt kết dệt bằng hoạt động sáng tạo, nhờ đó, con người mới là Con Người đúng nghĩa. Nói tóm lại, con người đã vong thân, đã đánh mất phẩm giá cao quý của mình để chạy đuổi theo hiệu năng và số lượng mà kỹ thuật đòi hỏi, chạy theo những hàng hóa được tân chế hàng tháng, từng tuần, dưới sức thúc đẩy để có điều kiện của kỹ thuật quảng cáo. Trong thế giới đó, con người không còn nhận ra chính mình nữa như lời tiên tri của thi sĩ Rimbaud: Je suis un Autre, tôi là một kẻ khác. Các nhà tâm lý học, xã hội học thường xuyên bàn giải về nỗi cô đơn, lạc loài của cong người trong đô thị hay giữa đám đông vô danh, về sự nhàm chán do đời sống đã được tổ chức quản trị quá chặt chẽ, khiến con người như bị bưng bít, nghẹt thở, cảm thấy bị cướp đoạt hết tự do, mất hết sinh lực sáng tạo. Họ sống vô mục đích, thiếu tin tưởng trong một thế giới chú tâm quá nhiều đến an toàn vật chất cho con người và biến lòng tin tưởng vào sức mạnh của khoa học kỹ thuật thành một thứ tôn giáo mới. Dần dần, những sự quản trị con người đã biến tướng để đồng nhất với sự quản trị những đồ vật, phục vụ cho những tiêu trừu tượng, con người sang tạo tự do thuở ban đầu, nay đã biến thành con người tổ chức (organization-man), nói theo danh từ của một nhà xã hội học nổi tiếng nước Mỹ (xin đọc Nicolas Berdvaev: Creativity and The Structure of Society in the meaning of the Creative Act, page 255).
Với ba xưng danh: khổ khổ, hoại khổ và năm thủ uẩn khổ, Đức Phật chỉ nói lên thực trạng của kiếp người, con người quá khứ cũng như con người hiện tại. Nhưng đồng thời, Đức Phật cũng nói lên sự thật thứ ba, Diệt đế (Nirodhasacca). Với kinh nghiệm bản thân, Ngài đã tuyên bố: Các sự đau khổ trên có thể diệt trừ được, ngay trong hiện tại nếu con người có đủ bền chí và kiên gan đi theo con đường Trung đạo mà Đức Phật đã giới thiệu trong đạo đế (Magagasacca). Nếu với sự thật thứ nhất khổ đế, Đức Phật đã gióng lên một báo động bi quan, thời với sự thật thứ ba, Diệt đế, Đức Phật cũng gióng lên ngân vang lạc quan của một vị đã giải thoát các sự khổ đau trên. Và thực vậy, trong bốn mươi chín năm thuyết pháp của Ngài, Ngài chỉ nói lên bức thông điệp độ sanh, tìm hiểu những ưu điểm, nhược điểm của con người, rồi Ngài giới thiệu phương pháp thực tiễn hữu hiệu để con người có thể vươn mình thoát khỏi các căn bệnh trầm kha đè nặng trên kiếp sống của con người hiện đại. Khi Đức Phật phân tích con người gồm có Danh (nàma) và Sắc (rùpa), Ngài cho chúng ta thấy con người chúng ta sống ở đời này là bị chi phối bởi hai sức mạnh: Rùpajivitindriyana, sắc mạng căn, và Nàmajivitindriva hay danh mạng căn. Chính sắc mạng căn khiến chúng ta di đứng nằm ngồi, khiến tim chúng ta đập, phổi chúng ta thở, mạch máu chúng ta chảy, tóc chúng ta dài, thân chúng ta lớn… Chính danh mạng căn khiến chúng ta suy nghĩ điều này, lo âu việc nọ, khi thì tánh tham nổi lên, khi thì tánh sân ngự trị, tóm lại tất cả đời sống tình cảm, tánh tình, tri thức của ta điều bị chi phối từ khi sanh ra cho đến khi chết. Và sự giáo hóa, giáo dục hay tu hành ở đây là làm thế nào phát triển hai sức mạnh Danh mạng căn và Sắc mạng căn một cách tốt đẹp. Nói một cách khác, đạo Phật không có tách rời thân thể ra khỏi tâm trí con người. Không thể có một tâm trí trong sạch trong một thân thể nhớp nhúa, cũng như không thể có một thân thể cường tráng trong một tâm hồn bệnh hoạn.
Từ Danh và Sắc, Đức Phật đi đến phân tích con người thành năm uẩn : Sắc – Thọ – Tưởng -Hành – Thức uẩn. Sự phân chia này nói theo danh từ hiện đại phân tích con người thành năm phần: thân thể – tình cảm – tính tình – tri thức – và trí tuệ. Món ăn, bao tử chúng ta tiêu hóa, khí trời, phổi và da thịt chúng ta thở, khung cảnh chúng ta sống, sách vở chúng ta đọc… đều ảnh hưởng tới Sắc mạng căn và Danh mạng căn của chúng ta. Một đường hướng giáo dục phiến diện chỉ chú trọng một thành phần con người và xao lãng các thành phần khác sẽ đào tạo những con người mất thân bằng cô đơn, lạc long, khắc khoải và cuồng tín như chúng ta đã thấy ở con người hiện đại. Ở đây, đạo Phật chủ trương một sự giáo hóa, một đường hướng giáo dục phát triển toàn diện, phát triển đồng đều, thăng bằng cả thân và tâm con người, cả năm mặt thân thể, tình cảm, tính tình, trí thức và trí tuệ con người. Đạo Phật tin rằng chỉ có con đường hướng giáo dục ấy mới chữa trị được những thân bịnh và tâm bịnh con người hiện đại, đào tạo được một thế hệ mới, vừa giữ được thoải mái của thân tâm, vừa xây dựng được lòng tin tuổi trẻ, vừa phát triển được những gì tốt đẹp nhất của tình người và con người.
Từ nơi sự phân tích con người thành danh, sắc, năm uẩn, Đức Phật đưa đến phân tích con người thành mười hai xứ túc là sáu căn đối mặt với sáu trần, mắt thấy, tai nghe tiếng, mũi ngửi hương, lưỡi lếm vị, thân cảm xúc và ý thức pháp. Và đối với con người phàm phu trong quá khứ cũng như trong hiện tại, khi mắt thấy sắc đẹp, thời tham tâm khởi lên, thấy sắc xấu thì sân tâm khởi lên. Khi tai nghe tiếng hay thì tham tâm khởi lên, nghe tiếng khó chịu thì sân tâm khởi lên… Nói tóm lại, khi sáu căn đối mặt với sáu trần thì tham tâm và sân tâm tiếp tục hiện khởi. Các căn của chúng ta sẽ hoàn toàn bị chi phối, hoàn toàn bị sáu trần nô lệ. Các cô càng ngày càng đẹp hơn, quyến rũ hơn; âm nhạc càng ngày càng du dương hơn, quyến rũ hơn; các món ăn càng ngày càng ngon miệng hơn, quyến rũ hơn đều nhằm mục đích tấn công sáu căn của chúng ta, khiến chúng ta trở thành những kẻ bại trận, những kẻ nô lệ. Đức Phật nhận thức được những nhược điểm ấy của con người, nên trong cuộc đối mặt giữa mắt với sắc, tai với tiếng, mũi với hương, lưỡi với vị, thân với xúc và ý với pháp, Ngài giới thiệu cho chúng ta phương pháp hộ trì các căn (Indriyasamvara), sự hộ trì này giúp con người sự chiến thắng tham tâm của mình, một sự chiến thắng mà Đức Phật đã đề cập trong kinh Dhammapada, kệ thứ 103:
Dầu tại bãi chiến trường,
Thắng ngàn ngàn địch quân,
Không bằng tự thắng mình,
Thắng mình thắng tối thượng.
Ở đây rất có thể có người ngần ngại cho rằng nếu sự huấn luyện các căn trở thành “trơ như đá, vững như đồng” không còn biết thưởng thức các hay cái đẹp thì đời sống còn gì đáng sống. Sự thật, ở đây không phải vấn đề thưởng thức mà chỉ là vấn đề nộ lệ, vấn đề huấn luyện các căn thế nào khỏi sự chi phối của sáu trần mà thôi. Và sự thoát ly ra ngoài sự chi phối của sáu trần không có nghĩa là con người trở thành gỗ đá, không biết thưởng thức cái hay cái đẹp của cuộc đời. Lịch sử cho chúng ta thấy các kiến thức của Phật giáo, các tượng Phật, tượng Bồ Tát, các hình ảnh ở động Ajanta có thể xem là những kiệt tác nhất nhì thế giới về kỹ thuật và về mỹ thuật, và những nhà tu hành, như đã ghi chép hai tập Trường lão Tăng kệ (Theragàthà). Trưởng lão Ni kệ (Therigàthà) cũng như trong các tập Thiền Uyển Đăng Lục, đã là những nhà thi sĩ tuyệt tác, biết rung cảm trước cái hay cái đẹp của cuộc đời. Dưới đây là bài thơ chữ Hán của Ngài Vạn Hạnh Thiền sư vừa tràn đầy nhạc điệu ý thơ, vừa thâm trầm thiền vị giải thoát để quý vị thấy các nhà giải thoát vẫn có thể vừa là thiền sư vừa là thi sĩ:
Thân như điện ảnh hữu hoàn vô,
Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô,
Nhậm vận thịnh suy vô bố úy,
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.
(Thân như bóng chớp chiều tà
Cỏ xuân tươi tốt thu qua rụng rời.
Sá chi suy thịnh của đời,
Thịnh suy như hạt sương rơi đầu cành).
Sau khi phân tích và tìm hiểu con người, Đức Phật giới thiệu con đường giáo hóa con người của Ngài. Trong kinh Dhammacakkhapavattana – sutta, kinh Chuyển Pháp Luân, Ngài đã bác bỏ hai lối sống cực đoan là hưởng thụ dục lạc và tu hành khổ hạnh, mà Đức Phật xem là hạ phẩm cách con người và không đưa lại hạnh phúc cho con người. Đức Phật giới thiệu con đường Trung đạo (Majjhima Patipadà), con đường chánh tám ngành, tức là Giới học, Định học và Tuệ học. Giới học là phương pháp điều hòa thân, điều hòa hơi thở, điều hòa tâm, để thân tâm khỏi phải phí sức, mệt mỏi, bệnh hoạn, và để thân tâm khỏi phải dao động và tán loạn. Định học là phương pháp tập trung tâm trí vào một đối tượng và nhờ sự tập trung ấy, khai thác được những sức mạnh tiềm tàng trong thân tâm, và những sức mạnh ấy được gọi là định lực. Định học có khả năng hoán chuyển những tâm, tâm sở Dục giới thành những tâm, tâm sở Sắc giới và Vô sắc giới, như sự thay thế năm triền cái tham dục, sân, thụy miên, trạo cử, nghi, bằng năm thiền chi Tầm, Tứ, Hỷ, Lạc, Nhất tâm. Tuệ học là phương pháp dùng trí tuệ để quan sát các pháp đúng với ba pháp ấn Khổ, Vô thường và Vô ngã. Chính nhờ sự quan sát chơn chính, đúng với thực tướng này mà mười kiết sử được đoạn trừ, và con người được giải thoát và giác ngộ. Theo Đạo Phật muốn diệt khổ, phải biết đến khổ, muốn hiểu đời, phải biết nhìn, quan sát đời. Và chính tuệ học giúp chúng ta có một quan niệm chính xác về con người và cuộc đời. Trí tuệ bao giờ cũng chiếm một địa vị ưu tiên, tối thắng và tối hậu trong đạo Phật. Giới-Định-Tuệ nói lên hai căn tánh sẵn có trong mỗi người, định căn và tuệ căn là hai sức mạnh tiềm ẩn trong mọi cá nhân, định lực và tuệ lực mà con người chúng ta quên không biết khai thác. Phương pháp giới định tuệ cũng nói lên sự liên quan mật thiết giữa ba môn học này như đỉnh ba chân, không thể thiếu môn học nào, và chỉ có một sự giáo hóa hay giáo dục toàn diện cả Giới, Định, Tuệ bao hàm cả năm phương diện thể xác, tình cảm, tính tình, tri thức, và trí tuệ mới đào tạo được những con người thăng bằng, bình tĩnh, đủ sức đối trị với những nghịch cảnh của một thế giới hiện đại đầy cam go thử thách.
Phương pháp Giới-Định-Tuệ cũng nêu rõ sự phát triển của một tâm sở, khi được biến chuyển từ dục giới sang sắc giới, Vô sắc giới và qua siêu thế giới, như Tầm tâm sở, Vitakka biến thành Appanà vitakka tức là an chỉ tầm, tức là tầm với khả năng định lực. Lên siêu thế giới, Vitakka biến thành Sammàsakappa hay Chánh tư duy trong Bát Chánh Đạo. Về huệ căn tâm sở cũng vậy, ở dục giới, trong bất thiện tâm thì được gọi là Ditthi hay là tà kiến. Cũng ở dục giới trong Tịnh quang tâm, thì được gọi là nanà hay Trí. Lên đến sắc giới và vô sắc giới, Trí được gọi là Abhinnà hay Tăng thượng trí trong lục thông, được gọi là Vimansa-iddhipada hay Tư duy thần túc trong bốn thần túc, được gọi là Huệ căn, huệ lực trong năm căn, năm lực được gọi là Dhàma vicaya, Trạch pháp giác chi trong Thất giác chi và được gọi là Sammàditthi, Chánh tri kiến trong bát Chánh Đạo ở siêu thế tâm. Như vậy sự chuyển biến của một tâm sở được thành tựu tùy thuộc vào sự tiến triển của từng tâm sở và nghị lực tu trì của từng cá nhân ngay trong hiện tại và trên cương vị hiện tại của mình. Cho nên khả năng hướng thượng của con người thực sự rất tốt đẹp, nếu chúng ta có đầy đủ ý chí và nghị lực muốn cải thiện đời sống của chúng ta.
Chính nghị lực này được Đức Phật đề cập đến với lý thuyết nghiệp và nghiệp báo (kamma và kammavipàka). Đức Phật nêu rõ chính hành động chúng ta tạo thành thân thế sự nghiệp của chúng ta, và hành động ấy chỉ được gọi là nghiệp (kamma) khi nào hành động ấy có dụng ý (cetanà). Với định lý nghiệp báo này, Đức Phật chỉ cho chúng ta thấy, chúng ta là thừa tự nghiệp báo của chúng ta, kammadàyadà, và vì nghiệp liên hệ đến tư tâm sở cetanà, nên chung quy mọi hành động đều tùy thuộc vào dụng ý của chúng ta, dụng tâm của chúng ta, ý chí của chúng ta, quyết định của chúng ta. Như vậy đời sống hiện tại của chúng ta được tạo ra bởi hành động của quá khứ và hiện tại, và chính những hành động hiện tại và tương lai, tác thành thân thế và sự nghiệp của chúng ta trong tương lai. Nói một cách khác, Đức Phật với định lý Nghiệp và Nghiệp báo này thẳng thắn chỉ cho chúng ta những con người hiện đại, chúng ta hoàn toàn chịu trách nhiệm hành động của chúng ta. Tất cả sự đau khổ của con người hiện đại được đề cập đến trong khổ đế đều có thể trừ diệt nếu chúng ta theo con đường Trung Đạo (Majjhima patipada). Con đường này trước hết là một sự phát triển toàn diện và thăng bằng con người cả hai sức mạnh Danh mạng căn, Sắc mạng căn và đủ cả năm mặt thân thể, tình cảm, tính tình, trí thức, trí tuệ. Con đường này cũng là một sự huấn luyện sáu căn, chúng ta được tự chủ và tự tại khi đối mặt với sáu trần.
Kính thưa quý vị,
Với bức thông điệp về Khổ đế và Diệt đế, Đức Phật chỉ cho chúng ta căn bệnh trầm kha đè nặng trên kiếp sống con người hiện đại và nói lên cho chúng ta rõ các căn bệnh ấy đều có thể diệt trừ ngay trong hiện tại.
Với sự phân tích con người thành Danh sắc, Ngũ uẩn, Thập nhị xứ, Đức Phật trình bày cho chúng ta rõ những sức mạnh đang chi phối đời sống chúng ta, những nhược điểm và ưu điểm của con người hiện đại, và đường hướng giáo hóa, giáo dục cần phải khai thác.
Với con đường Trung đạo, Đức Phật giới thiệu cho chúng ta pháp môn Giới-Định-Tuệ, phương pháp giáo hóa và giáo dục một con người toàn diện để con người hiện đại có thể tìm thấy một lý tưởng để sống và để nâng cao giá trị con người.
Và với lý Kamma va Kammavipaka (Nghiệp và Nghiệp báo) Đức Phật giúp chúng ta ý thức được khả năng và trách nhiệm của chúng ta, một khả năng hướng thượng và hướng thiện rất tốt đẹp nếu chúng ta biết phát triển những năng lực tiềm tang trong con người chúng ta. Đó là bức thông điệp Phật Đản mà Đức Phật đã trao cho chúng ta, những con người hiện đại, trong đại lễ hôm nay.
Xin trân trọng kính chào quý vị,
(Trích Tuyển tập “Hãy Tự Mình Thắp Đuốc Lên Mà Đi”, Saigon, 1990)
Nguồn: Ðạo Phật Ngày Nay