con em của mình nói lên nỗi lòng của nó. Từ đó hai bên sẽ thông cảm nhau hơn và nguyên nhân để phát sinh ra sân hận không còn. Thống kê mới nhất cho biết rằng giađình có con cái thành công nhiều nhất hay mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái tốt đẹp nhất là khi không có khoảng cách giữa cha mẹ và con cái nghĩa là cha mẹvà con cái lúc nào cũng cảm thông nhau, biết chia sẽ những thăng trầm và biết tôn trọng lẫn nhau. Thay vì nói lên những lời chua cay, độc ác có thể ghi khắc vào tâm thức của chúng muôn đời khiến chúng có những ác cảm thì bây giờ hãy lắng nghe, tha thứ và tìm cách khuyến khích giúp đở để chúng gieo những chủng tử tốt. Niệm Bồ Tát Quán Thế Âm là lắng nghe tiếng nói thanh tịnh nhiệm mầu từtrong đáy lòng của mình thì những tức giận, buồn phiền sẽ tan biến. Khi mình tựtại, an vui thì thế giới mình đang sống cũng sẽ nhẹ nhàng thoanh thoát và những người thân chung quanh ta sẽ kính yêu ta nhiều hơn.
Thế thì khủng hoảng về tinh thần còn đau đớn hơn là bị hành hạ bằng thân xác cho nên có Chánh niệm để niệm Bồ Tát Quán Thế Âm thì những dao gậy đó không làm cho mình đau khổ nữa.
5)Khỏi bị Dạ Xoa và La Sát làm hại, thậm chí chúng không dám ngó nhìn.
Khi một người có Chánh niệm để niệm Bồ Tát Quán Thế Âm thì những giận hờn, trách móc, những gì trái với bản ngã không còn phát tác được. Thí dụ có người chửi mình như tác nước vào mặt. Nếu không có Chánh niệm để biết được hậu quảtai hại của việc chửi lại thì chúng ta đã mắng chửi lại ngay. Ắn miếng trảmiếng là chuyện thường. Nhưng Chánh niệm đã đánh thức khiến tâm ta bừng tỉnh đểthấy biết rõ ràng những tác hại của việc chửi mắng vì vậy cũng nghe lời chửiđó, nhưng chúng ta không chấp lời nói thị phi, không đem nó vào tâm nên nghe thì cũng nghe mà tâm vẫn bình yên vô sự. Vì vậy bọn quỷ La Sát, Dạ Xoa không cám dỗ được mình, không xuối đẩy chúng ta vào con đường tội lỗi đau thương nên chúng xa lánh, không dám nhìn chúng ta nữa.
Ở đời thì “Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu” cho nên người ác thường giao du với kẻ ác, người hiền thường tìm đến người hiền. Vì thế nếu bạn không còn giận hờn, si mê cuồng loạn thì quỷ La Sát sẽ không bao giờ tìm đến với bạn.
Có một ông Tướng chán ngán nhân tình thế thái nên đến xin xuất gia với ngài Đại Huệ :
– Bạch Thầy! Hiện tại con đã trừ sạch niệm hồng trần, xin Thầy từ bi thu nhận con làm đệ tử xuất gia.
Sư bảo :
– Ông có gia đình, còn tập khí ngoài đời nặng nề nên chưa thể xuất gia, hãy thong thả từ từ.
Ông thưa :
– Bạch Thầy! Gia đình, vợ con, thê thiếp, công danh, phú quý con đều bỏ được hết, cúi mong Thầy cho con xuất gia ngay.
Sư vẫn bảo :
– Hãy thong thả từ từ.
Ông đành chờ. Ngày nọ, ông dậy rất sớm vào chánh điệnđảnh lễ Phật. Ngài Đại Huệ thấy vậy, liền bảo :
– Tướng quân vì sao mà dậy sớm đến lễ Phật như thế?
Ông trả lời bằng bài kệ :
“Vì trừ lửa trong tâm
Dậy sớm lễ sư trưởng”
Sư cũng đối lại :
“Dậy sớm như thế ấy
Chẳng sợ vợ ngủ người”
Ông vừa nghe liền nổi giận bảo :
– Lão quái này, sao hôm nay nói năng xúc phạm đến người quá vậy?
Lúc đó, Thiền sư Đại Huệ cười mà bảo rằng :
“Nhè nhẹ phẩy chiếc quạt
Tánh lửa đã cháy phừng
Nóng nảy hừng như thế
Sao bảo buông xuống xong?
Đang nổi giận, ông nghe nói vậy chợt bừng tỉnh lại. Dođó khi nổi giận là sân, nhưng khi tỉnh lại là giác. Con người vì mê nên mới khởi tham-sân-si, nếu bây giờ giác được tham-sân-si thì sẽ trở về với tánh giác nhiệm mầu trong sáng sẵn có của chính mình.
6)Bị giềng xích gông cùm, đều có tội hay không, xiềng xích gông cùm thảy đều đứt rã.
Gông cùm xiềng xích mà kinh nói ở đây chính là Thập Triền, Thập Sử dẫn đắtđưa đẩy con người sa vào hố của tội lỗi đau thương.
1.Thập triền: là mười món phiền não nương vào tham, sân, si mà khởi, tương ưng với tâm nhiễm ô, tạo các ác hạnh để trói buộc chúng sinh trong sinh tử.
-Vô tàm: Không biết hổ thẹn.
-Vô quý: Không biết hổ thẹn đối với những tội lỗi do mình tạo ra khi bịngười khác thấy biết.
-Tật: Tâm đố kỵ đối với những việc hưng thịnh của người khác.
-San: Bỏn sẻn, keo kiệt.
-Hối: Hối hận vì những lỗi xấu của mình đã làm, khiến tâm bất an.
-Miên: Mê ngủ khiến tâm mờ tối, không có năng lực tỉnh xét.
-Điệu cử: Thân dao động khiến tâm không yên, không thể nào thành tựu các thiền quán.
-Hôn trầm: Thần thức u mê, thân tâm không có năng lực an trụ trong thiện pháp.
-Phẫn: Đối với cảnh trái ý mình thì sinh tâm tức giận, đánh mất chánh niệm.
-Phú: Che đậy tội lỗi của mình.
Nếu hằng ngày chúng sinh không giữ vững chánh niệm, sống trong tỉnh thức thì mười món này sẽ trói buộc (triền) con người không có lối thoát.
2.Thập sử chính là xiềng xích, là gông cùm đã cột chặt, sai sử con người suốt cả cuộc đời để làm nô lệ cho vô minh phiền não. Căn bản phiền não có sáu món là tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến. Phần ác kiến lại chia làm năm phần: Thân kiến, Biên kiến, Tà kiến, Kiến thủ, Giới cấm thủ. Thập sử là tên gọi dựa theo Duy Thức Học còn tên thông thường là Tư Hoặc và Kiến Hoặc trong phần Tập Đế. Do đó con đường duy nhất để có giải thoát ra khỏi sinh tử luân hồi là phải phá cho được Tư Hoặc và Kiến Hoặc chứng đắc thánh quả A la hán. Năm món tham, sân, si, mạn, nghi gọi là năm món “độn sử” bởi vì nó ngấm ngầm sai sử con người cũng như than đỏ trong tro làm chướng ngại ba món vô lậu Giới Định Tuệ. Ví dụ, cũng vì muốn thỏa mãn lòng tham mà có người dám làm những chuyện tày trời, phạm luân thường đạo lý, không kể hậu quả sau này sẽ vào tù ra khám. Khi cơn giận nổi lên thì bất chấp phải trái ngay cả giết người họ cũng làm. Hoặc một khi lòng si mê tham đắm dục tình bùng cháy trong tâm, người đàn bà có thể giết chồng, bỏ con để chạy theo tiếng gọi của con tim. Nói chung hằng ngày tham, sân, si, mạn, nghi sai sử chúng ta trên mọi phương diện của cuộc sống và chúng nhận chúng ta vào trong bể ái sông mê. Vì thế chỉ có chánh niệm tỉnh thức giúp chúng sinh quay về niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm để lắng nghe tiếng nói Diệu Âm trong suốt thanh tịnh trong lòng ta thì mới đủ công năng đánh thức con người quay về sống đúng với chơn tánh của mình tức là chính mình đã chặtđứt những sợi dây vô hình đã cột chân, cột tay chúng ta vào con đường bất thiện.
Giáo lý Phật Đà là Phật giáo trí tuệ giúp người tu khai tâm mở tánh, làm lành lánh dử, luôn sống trong tỉnh thức chánh niệm, làm chủ đời mình thì sẽ có an lạc tự tại mà không cần cầu xin, van lạy ai hết. Niệm Quán Thế Âm là niệm tâm mình chớ đâu phải niệm một tha lực nào đó ở ngoài tâm.
Các tôn giáo khác trên thế giới nói rằng Thượng đế của họ có thểrửa sạch mọi tội lỗi mà con người đã làm. Nhưng ở đây, đức Phật đã khẳng định rằng tội do một người làm thì không bao giờ có thể được rửa sạch bởi một người khác. Thực sự cả Đức Phật lẫn Thượng Đế đều không thể làm được điều đó. Trong kinh Lăng Nghiêm đức Phật dùng thí dụ Phật thọ trai thì người khác không no được nghĩa là ai ăn người ấy no, ai uống người đó hết khác. Nói thế có nghĩa là bạn tạo tác tội nghiệp gì thì chính bạn phải thọ lãnh kết quả đó. Khi một người sắp chết và nói rằng ông ta tin vào Thượng Đế, suy cho cùng những điều tội lỗi ông đã phạm ấy thử hỏi Thượng Đế có thể làm cho hết đi được không? Thí dụ bạn là người rất thích uống rượu và bạn biếtđiều đó là sai nhưng bạn lại không biết làm cách nào để loại trừ tính xấu ấy. Vì thế bạn đi đến Thượng Đế để cầu nguyện và xin Ngài làm ơn lấy thói xấu ấy ra khỏi tâm cho bạn, bạn nghĩ có vị Thượng Đế nào làm được điều đó không? Bạn có thể đi đến đức Phật và cầu xin Ngài. Nhưng đức Phật cũng không thể lấy tánh xấu đó ra khỏi tâm bạn được màđức Phật chỉ có thể dạy cho bạn biết cách làm thế nào để loại trừ thói hư tật xấu đóbằng tất cả nỗ lực của bạn mà thôi.
Không ai có thể giúp bạn ngoại trừ bản thân bạn qua sựhiểu biết. Chính bạn là người phải nhận ra rằng “tật uống rượu này thật nguy hiểm, nó có thể tạo ra nhiều điều phiền muộn, rắc rối và khó khăn, làm hại bản thân ta và người khác. Ta phải cố gắng giảm thói hư tật xấu này bằng cách dùng nghị lực của ta và sự quyết tâm mạnh mẽ sáng tạo của ta để nhổ bật nó ra khỏi tâm”.
Vì vậy cho dù là đức Phật hay Thượng Đế thì cũng không thể rửa sạch những tội lỗi do chúng ta tạo ra mà chỉ có một mình chúng ta làm được điều đó bởi vì đạo Phật là đạo chuyển nghiệp. Nghiệp ác chẳng khác nào những tảng đá đè nặng lên ta, bây giờ dùng tất cả nghị lực xô tảng đá đó xuống thì thân, tâm sẽ được nghẹ nhàng thanh thoát. Đức Phật cóđưa ra một lời khuyên, nếu một người phạm phải một ác nghiệp (karma) họ không thể loại trừ được quả báo bằng cách cầu nguyện Thượng Đế hay đức Phật. Tuy nhiên khi họ biết mình đã phạm ác nghiệp, họ phải dừng lại không tạo thêm ác nghiệp nữa. Họ phải quyết tâm mạnh mẽ tạo thật nhiều thiện nghiệp hay những việc phước đức. Khi họ tạo được nhiều thiện nghiệp như vậy, quả của ác nghiệp họ đã làm trướcđây có thể nhờ thiện nghiệp này mà bị triệt tiêu hay giảm nhẹ. Ác nghiệp có thể ví như viên thuốcđộc, nếu uống thì bạn sẽ chết ngay. Nhưng bạn tạo rất nhiều thiện nghiệp, vun bồi phước đức lộng lớn chẳng khác nào nước chứa trong đầy cái hồ lớn. Bây giờlấy viên thuốc độc đó bỏ vào cái hồ nước rồi múc vài ly uống bạn vẫn thản nhiên, không hề hấn gì hết.
Thí dụ bạn có nghĩ rằng có một người làm việc bất thiện, bị cảnh sát bắt liền cầu nguyện Bồ Tát Quán Thế Âm để cảnh sát khỏi còng tay hay không vô tù? Hay nhiệm mầu hơn nữa là ở trong tù người đó niệm niệm Bồ Tát Quán Thế Âm tức thì gông cùm tự nhiên rớt xuống, của ngục mở toang và người đó thư thả đi về?Chư Phật và chư Bồ Tát không bao giờ dính dáng hay can dự vào chuyện ân oán nhân quả của chúng sinh. Đức Phật đã khẳng định rằng không một một ai trên thếgian này có thể chuyển quả của người khác được. Vì vậy, giáo lý Phật Đà có mụcđích giúp chúng sinh gieo nhân lành, giống tốt, nhưng một khi đã thành quả rồi thì phải lãnh chịu quả báo thế thôi.
Đức Phật dạy rằng:
“Ta có Nghiệp (Karma) là tài sản của chính ta, ta thừa kếNghiệp của ta, Nghiệp là hậu duệ của ta, Nghiệp là quyến thuộc của ta, Nghiệp là nơi nương tựa của ta. Bất kể ta làm việc tốt hay xấu, ta sẽ thừa kế các quả của hành động đó”.
Những lời của Đức Phật vô cùng mạnh mẽ không chỉ cho các vị Tỳ-khưu mà cònđối với tất cả mọi người. Mọi người phải nhận thức rằng Nghiệp là tài sản của ta. Ta phải thừa kế Nghiệp của ta. Hậu duệ thực sự của ta là Nghiệp của ta. Người bạn đường thủy chung nhất là Nghiệp sẽ luôn theo sát bất kỳ nơi nào ta tái sanh. Bất kể hành động và nhân của Nghiệp ta đã gieo trồng là tốt hay xấu, ta sẽ phải gặt hái quả của hành động đó. Đó là điều mà đức Thế Tôn muốn nhắn nhủ chúng ta.
Đức Phật đã khẳng định rất rõ ràng rằng ta gieo nhân thì chính ta phải gặt quả và không có tha nhân nào, cho dù đó là đức Phật hay Bồ Tát Quán Thế Âm có thể chuyển “quả” của chúng ta được. Nói cách khác, mình gieo nhân thì tự gặt quả lấy, hoàn toàn không có một tác nhân của Phật, Chúa Trời, Thần, Quỷ … can dự vô nhân quả của mình được. Mình gieo nhân tốt, không cần sự cứu rỗi của ai cũng được sanh lên các cảnh giới chư Thiên. Nếu mình làm chuyện bất thiện thì sau khi chết, nghiệp bất thiện nầy tương ứng với cảnh giới của những người bất thiện, khiến tâm thức của người ấy sanh về cảnh giới chịu khổ sở để trả quả báo ác độc, không có một vị thần nào đày ta xuống cõi âm ti, địa ngục cả.
Tuy nhiên, muốn lìa khổ được vui, đạo Phật dạy chúng sinh chuyển nghiệp tức là chuyển mê thành ngộ.
Cơ quan phát ra và tạo thành nghiệp gồm có: thân, khẩu, ý. Trong 3 thứnầy, quan trọng nhứt là ý. Ý nghiệp, là những suy tính, so đo phân biệt, Duy Thức Học gọi nó là “liễu biệt cảnh thức”. Ý là chủ động tạo nghiệp. Khi ý nghĩ điều lành, thì nó thúc đẩy cái miệng nói ra điều lành và cái thân làm điều lành. Ngược lại, khi ý nghĩ điều xấu ác, thì nó xúi giục cái miệng nói điều xấu ác hung dữ và thân hành động tàn bạo độc ác. Chính ba nghiệp nầy là động cơ tạo thành thiên đường hay địa ngục ở thế gian. Tất cả mọi khổ vui của con người, từcá nhân, đến đoàn thể, nói rộng ra là tất cả nhân quần xã hội khắp năm châu bốn biển, đều do thân, khẩu, ý tạo ra cả. Cho nên, trong nhà Phật rất chú ý đến 3 nghiệp quan trọng nầy. Sự tu hành của người Phật tử, Phật dạy không cần tu đâu xa, chỉ cần tu chuyển đổi ở nơi 3 nghiệp nầy. Chuyển đổi 3 nghiệp ác thành 3 nghiệp lành. Như trước kia, chúng ta hay nghĩ xấu ác rồi nói năng hành động xấu ác, như miệng chửi rủa, mắng nhiếc, thân hành động tà hạnh, cướp của, giết người v.v… nay biết tu hành, chúng ta nên chuyển đổi lại quyết định không gây tạo những điều xấu ác đó nữa. Đó là chúng ta khéo biết tu và khéo chuyển 3 nghiệp. Thí dụ như trước kia, vì si mê khờ dại và nghèo khó ta đi vào con đường trộm cướp, nay ta biết được tai hại của việc trộm đồ cướp của nầy rất nguy hiểm, ta quyết định từ bỏ trộm cướp và kiếm việc làm lương thiện nuôi thân, nuôi gia đình, đó là ta đã chuyển nghiệp xấu thành nghiệp tốt. Khi đã chuyển nghiệp rồi, đời ta thật vui vẻ hạnh phúc biết bao và ta có rất nhiều tự do, không còn lo sợ bị tù tội, bị ngườiđánh đập hay giết hại ta nữa. Một người biết tu chuyển nghiệp, thì chính ngườiđó được lợi lạc trong hiện tại và mai sau. Gia đình nào biết tu chuyển nghiệp xấu thành nghiệp tốt, thì gia đình đó được hạnh phúc, hòa thuận, êm ấm. Và từ đó, lan rộng ra xã hội được trật tự, an bình, hạnh phúc, lợi lạc, đó là mụcđích mà người Phật tử hướng đến.
Thế thì tu là chuyển nghiệp bởi vì nếu nghiệp không chuyển được thì không ai tu làm gì. Chuyển là chuyển xấu thành tốt, chuyển ác thành thiện, chuyển tà thành chánh, chuyển dở thành hay v.v… Sở dĩ nói chuyển nghiệp mà không nói sửa nghiệp, bởi chữ chuyển ngầm ý nói lên bên trong nội tâm hơn là nói cái bên ngoài. Chuyển đổi từ ý niệm xấu để trở thành ý niệm tốt. Do đó, nhà Phật nói chuyển nghiệp mà không nói sửa nghiệp là vậy.
Ngài Quán Thế Âm thật ra rất huyền diệu nhiệm mầu nếu bạn thành tâm niệm từ trong tấm lòng trong sáng của mình. Thí dụ có một người khi thấy một món hàng đắc tiền trong một cửa tiệm, tâm tham liền khởi nên muốn đánh cắp vật quý giá này, nhưng ngay trong giây phút đó Chánh niệm bừng sáng khiến người đó thức tỉnh quay về niệm danh hiệu Quán Thế Âm thì lòng tham đắm, si mê tức thì biến mất nên người đó không phạm tội và thư thả đi về.
Nói chung, những hình ảnh như có người bị quỷ La Sát ám hại, hay có người bị hại bằng bằng dao gậy, hoặc có người bị xiếng xích trói chân liền niệm đức Quán Thế Âm thì sẽ thấy tâm mình nhẹ nhàng an lạc và bao nổi lo sợ tự nhiên biến mất. Đây là điều có thật bởi vì nguyên nhân phát sinh ra những nổi khổ đauđều phát nguồn từ lòng sợ hãi. Nào là sợ đói, sợ khát, sợ nghèo, sợ bệnh, sợthua sút bạn bè, sợ thiên tai bảo lụt, sợ thiếu công danh, sợ xa cách và mất người mình thương yêu…lúc sợ thì bồn chồn, lo âu, ăn không ngon và ngủ không thẳng giấc. Mà lo sợ là do tư tưởng phát hiện và đó là chức năng của tưởng uẩn.
Tưởng uẩnlà nhóm tri giác có khả năng nhận biết đối tượng là cái gì,đây là khả năng kinh nghiệm của sáu giác quan và sáu đối tượng của giác quan. Có sáu nhóm tri giác:
1. Tri giác vềvật thấy.
2. Tri giác vềâm thanh.
3. Tri giác vềngửi.
4. Tri giác vềvị.
5. Tri giác vềxúc chạm.
6. Tri giác vềcác pháp (sự vật).
Chữ “Tri giác” hay tưởng có nghĩa là ‘sự thấy” hay “sự nhận ra” bằng cách ôn lại quá khứ để nhận biết ra đối tượng. Đó là quay vào trong A lại da thức đểso sánh những hình ảnh, kỷ niệm, ký ức hay kinh nghiệm đã lưu trử rồi so sánh rồi cho ta cái tri giác nghĩa là đây là một con người dáng như thế này, thếkia, hay đây là một chiếc xe, màu trắng hay màu xanh…Đức Phật ví tưởng hay tri giác như ảo ảnh, một hiện tượng không thật nhưng hiện ra giống y như thật. Vì thế chúng sinh lầm tưởng hình sắc, âm thanh, mùi vị và các pháp là đàn ông, đàn bà, xe cộ…Do lầm lẫn như vậy nên họ tham ái dính mắc vào “cái tưởng” sai lầm này. Nên nhớ tưởng hay tri giác là ảo ảnh, không thật.
Thí dụ như khi mắt thấy một vật thì nhãn thức thấy vật đó, nhưng không thểcho ta biết vật đó là gì nên sau đó ý thức đưa tư tưởng đó vào A lại da thức so sánh rồi cho ta ý niệm (tưởng) tức là tri giác về sự thấy đó rằng vật đó là chiếc xe đạp. Khi sự thấy hay sự nhận biết ra vật đó là chiếc xe đạp thì chúng ta tin chắc rằng đó là chiếc xe đạp. Nhưng thế nào là chiếc xe đạp? Phải chăng hai bánh xe là chiếc xe đạp? Cái thắng xe ư? Cái yên ngồi ư? Chẳng có cái gì là chiếc xe đạp cả vì chiếc xe đạp là dựa theo quan niệm biết của mình nghĩa là mình đặt tên cho nó chớ thật tánh của nó đâu có tên tuổi gì. Vì vậy chúng ta chỉ thấy các pháp dựa theo quan niệm của mình chớ không thấy thật tánh của các pháp tức là “tự nó thật sự là”. Một thí dụ khác là khi nhìn đóa hoa chúng ta cho rằng mìnhđang nhìn đóa hoa, nhưng đóa hoa là tên do mình đặt cho nó chớ tự nó “không phải là” đóa hoa “hay là” đóa hoa. Mà thật chất của nó là sự tổng hợp của đất, nước, gió, lửa qua trùng trùng duyên khởi kết thành hình tướng rồi chúng ta đặt tên hình tướng đó là đóa hoa. Nói vậy thì trong đóa hoa có nước, nhưng chúng ta có thấy trời mưa hoa rơi xuống đâu? Trong hoa có ánh sáng mặt trời, nhưng ngoài trời đâu có rơi hoa? Trong hoa có phân bón, nhưng trong các thùng phân bón làm gì có hoa? Do đó thật tánh của hoa là không tánh vì hoa là do sự kết hợp của trùng trùng duyên khởi chớ đóa hoa không tự nó có hay tồn tại được.
Thế thì chiếc xe đạp hay đóa hoa thì nó “đang bịnghĩ là” chớ con người không nhìn thẳng vào tự tánh “đang là”của chúng. Do đó chúng sinh luôn lầm lạc cho tất cả hiện tượng vật chất theo tưtưởng “đang bị nghĩ là” của họ nghĩa là họ cho rằng nhà cửa, xe cộ, con người, súc vật, chim bay, cá lặn…là như thật, là vĩnh cửu, là trường tồn bất biến. Nhưng tự tánh “đang là” phủ định điều này vì cũng nhà cửa, xe cộ đó thì trong giây phút “đang là” này nó đang hoại diệt chớ đâu có thường hằng bất biến được. Vì vậy tri giác hay sự thấy, biết, nếm, ngửi tức là tưởng uẩn của con người là không thật, là ảo tưởng.
Chẳng những tưởng uẩn không thật mà ngũ uẩn cũng không thật cho nên đức Phật dạy rằng:
Sắc như phù mạc (hoa đốm trên không)
Thọ như thủy bào (bong bóng nước)
Tưởng như ảo ảnh (ảnh giả)
Hành như hương giá (vỏ cây chuối)
Thức như ảo thật.
Bát Nhã Tâm Kinh xác định rằng “ngũ uẩn giai không” vì mỗi uẩn không có tựthể nên chúng là vô ngã tức là không. Ngũ uẩn không thật nên tưởng uẩn cũng không thật. Nó không thật mà chúng ta cho là thật nên sống theo ảo tưởng khiến lo sợ, đau khổ, buồn phiền.
Nói chung tất cả những nỗi lo sợ là do “tưởng” mà ra và khổ thì cũng do tưởng mà có. Tưởng tượng càng nhiều thì lo sợ càng nhiều mà sợ nhiều thì khổnhiều. Tưởng có muôn hình vạn tướng cho nên nỗi lo sợ cũng biến thiên theo vàđau khổ vì thế có cơ hội phát triển mạnh. Ngài Quán Thế Âm cứu khổ ở đây là làm cho chúng sinh hết sợ tức là ngài bố thí pháp Vô úy. Thí dụ sắp đi ngang qua một chỗ thanh vắng nên sợ ma nhát làm chúng ta sợ hãi. Bây giờ có Chánh niệm liền niệm Bồ Tát Quán Thế Âm thì bảo đảm những hình ảnh ma quỷ, lo sợ biến mất và chúng ta tiếp tục lên đường bình an vô sự. Đây là sự huyền diệu nhiệm mầu của Bồ Tát. Pháp Quán Thế Âm là loại pháp thí cho chúng sinh vô úy (hết lo sợ)vì quán niệm Thế Âm nhất tâm thanh tịnh thì trên thế gian này chẳng có gì đáng sợ nữa ngay cả sự sống chết. Chết không sợ mà con người lại sợ chết cho nên quán niệm Bồ Tát để thấu triệt chân lý vô thường: sinh, trụ, dị, diệt và vô sanh nghĩa là sinh để rồi diệt và diệt để rồi lại sinh thì cuộc sống sẽ vô cùng an nhiên tự tại, sinh thuận tử yên nên hết sợ.
Chúng ta do “tưởng” điên đảo nên phóng hiện ra hình ảnh ma quái khiến ta lo sợ. Đến khi thức tỉnh liền niệm danh hiệu ngài Quán Thế Âm thì những ý niệmđiên đảo, ma quỷ tiêu tan ngay vì thế chúng ta yên ổn, hết sợ hãi thế thôi. Cao hơn nữa, niệm Quán Thế Âm là trở về với tánh giác hằng sáng thanh tịnh của ta thì tất cả những vọng niệm điên đảo sẽ tan biến nên không còn cái gì để lo sợ,buồn phiền. Nhưng cao hơn hết, niệm danh hiệu Quán Thế Âm là trở về với Tri Kiến Phật, là cái thể chân thật của mỗi người, vô hình vô tướng, thì làm sao lửa đốt, nước nhận chìm, hay ma quỷ hại được nên hết lo sợ và mọi hiểm nguy đều hóa giải.
Vì thế chủ đích của phẩm này là phá tưởng uẩn để trở về sống với cái chân thật, với trí tuệ Phật hằng sáng trong ta.
7)Gặp đường hiểm nạn,được thoát khỏi và không bị sợ hãi.
Lại nữa, chúng sanh nào nhiều dâm dục, nhiều giận hờn, nhiều ngu si, mà thường cung kính niệm danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm thì được lìa dục, lìa sân, lìa si.
Đường hiểm nạn là đường dẫn chúng ta vào làm những điều tội lỗi, bất chánh. Do đó khi có Chánh niệm liền niệm BồTát Quán Thế Âm thì lúc đó chúng ta đang sống trong tỉnh thức, trí tuệ sáng suốt nên không còn sa vào con đường tội lỗi đau thương nữa.
Đoạn kinh sau là nói về sự tai hại của thất tình lục dục, làbảy thứ tình cảm biểu lộ ra bên ngoài và sáu việc ham muốn của con người gồm chung trong câu nói ngắn gọn là “thất tình lục dục”.
1.Thất tình: Bảy thứ tình cảm mà mỗi chúng ta đều có như: Vui mừng, giận dữ, buồn bã, vui vẻ, yêu thương, ghét và ham muốn hay nói cách khác là hỉ, nộ, ai, lạc, ái, ố và dục vậy.
Bảy trạng thái tâm lý nầy luôn luôn tiềm ẩn ở nơi tâm thức chúng ta, hễkhi nào gặp một cơ hội thuận tiện, tự nhiên cái tình cảm ấy sẽ hiện nguyên ra bên ngoài như bộc lộ ra nơi nét mặt hay nơi cử chỉ, trong lời nói v.v… Nhưkhi vui, người ta có bộ mặt tươi tắn, lúc buồn mặt ủ dột, lạnh nhạt. Còn giận thì mặt tái mét, xanh xao; yêu thương mặt đỏ, nóng bừng v.v… Một trong 7 thứtình cảm trên thái quá cũng khiến cho tâm sinh lý con người xáo trộn mất quân bình và gây ra những hành động thiếu ý thức và tai hại. Để đối trị lại với thất tình, Phật giáo đưa ra Thất-giác-chi tức là 7 điều hiểu biết đúng đắn là: Chọn lựa phương pháp, chuyên cần, mừng vui, nhẹ nhàng, suy nghĩ, định tĩnh tâm thức và xã bỏ những ý tưởng thấp hèn.
2.Lục dục: là 6 điều ham muốn đã trởthành thói quen khó sửa đổi:
-Sắc dục: Thấy các sắc xanh, vàng, đỏ, trắng và hình sắc nam nữ rồi thamđắm vào đó.
-Hình mạo dục: Thấy hình dung đoan chánh, tướng mạo tốt đẹp mà sanh lòng tham đắm.
-Uy nghi tư thái dục: Thấy tướng đi, đứng, nằm ngồi, nói cười mà sanh lòng ái nhiễm.
-Ngữ ngôn âm thanh dục: Nghe tiếng nói trau chuốt êm ái thích ý vừa lòng, giọng ca lảnh lót, tiếng nói dịu dàng mà sanh lòng yêu mến.
-Tế hoạt dục: Thấy da thịt của nam nữ mịn màng, trơn láng mà sanh lòng yêu mến.
-Nhân tượng dục: Thấy hình nam nữ dễ thương mà sanh lòng đắm trước.
Thế gian là giả huyễn, vô thường, vô ngã, sanh sanh diệt diệt. Khi nhân duyên hòa hợp thì vạn pháp sanh và khi nhân duyên tan rã thì vạn pháp diệt cho nên tuy vạn pháp sanh sanh diệt diệt, diệt diệt sanh sanh mà chúng ta vẫn luôn luôn tự tại trước sự sanh diệt, diệt sanh nầy. Nếu biết áp dụng huyền nghĩa củađoạn kinh nầy vào trong cuộc sống, con người sẽ không còn chấp Tướng tức là chấp vào hình sắc, âm thanh, ngôn ngữ, lời nói, văn tự…thì cuộc sống sẽ an vui tự tại, không còn ràng buộc khổ đau. Nếu không chấp vào hình tướng thì con người sẽ không còn quan trọng đến nhà sang, xe đẹp, áo lụa quần là, se sua chưng diện xa hoa…mà chỉ cần đứng đắn chỉnh tề, tâm tư thanh thoát và ung dung tự tại. Nếu không chấp âm thanh, lời nói, văn tự vì chúng là giả huyễn, là sinh diệt thì con người sẽ dững dưng trước lời khen tiếng chê và xem những tiếng thịphi như gió thoảng ngoài tai mà hướng tâm thanh tịnh để thấy rằng:”Nhất thế sắc giai thị Phật sắc, nhất thế thanh giai thị Phật thanh” nghĩa là nếu có tâm thanh tịnh thì tất cả hình tướng đều là hình tướng Phật và tất cả âm thanh đều là âm thanh Phật.
Thất tình lục dục ví như những cục nam châm lúc nào cũng muốn hút con người vào trong quỷ đạo đam mê tham đắm sắc dục mà không có lối thoát. Bây giờcó Chánh niệm liền niệm Bồ Tát Quán Thế Âm thì tâm liền bừng sáng nên sống với tánh giác thanh tịnh của mình. Một khi tâm đã thanh tịnh thì cũng cái thế giới mà người đời gọi là “thất tình lục dục” đó, nhưng đối với ta thì bình yên thanh thản, không còn cái gì quyến rũ nữa.
Những mong muốn tìm cầu được thỏa mãn là vị ngọt, thích một thứ âm thanh, một loại nhạc nào đó mà nghe được nó là thỏa mãn, sự thỏa mãn đó chính là vịngọt của dục lạc, là cái đã đáp ứng được cho lòng ham muốn, làm cho người ta cảm thấy hạnh phúc khi vừa mới đạt được. Bản tính của dục lạc là không bao giờ được thỏa mãn. Từ ham muốn này đến ham muốn khác nên con người không bao giờ dừng lại ở cái gọi là hạnh phúc. Vì khi sự khao khát mong muốn vừa mới đạt được, vừa mới chớm thấy hạnh phúc, con người lại thấy tham muốn cái khác, cái cao hơn và cao hơn nữa. Chưa bao giờ lòng dục, lòng tham về dục lạc có một điểm dừng vì vậy mà tạo nên một trạng thái bức bách, khát khao không bao giờ được bình yên. Nói thế thì dục lạc chỉ là cái vui tạm bợ, nhất thời và thường đưa đẩy chúng sinh lún sâu vào vòng sinh tửtriền miên. Chính đức Phật cũng thừa nhậnrằng dục lạc là một sựthật có mặt ở thế gian, dục lạc ấy cũng đem đến hạnh phúc, đem đến sự khả ái, khả lạc, sự thỏa mãn cho con người nghĩa là Ngài cũng thừa nhận niềm vui của dục, công nhận nó có vị ngọt, làm quyến rũ con người. Nói khác đi, Ngài vẫn thấy rằng sắc đẹp, tiếng hay, mùi thơm, vị ngon, xúc êm dịu có vị ngọt làm say đắm lòng người. Nhưng đó chỉ là một khía cạnh bên ngoài, còn khía cánh tâm lý sâu xa hơn bên trong là bất cứ hiện tượng dục lạc nào cũng đều dẫn đến khổ đau. Cho dù bạn có ham thích bất cứ thứ gì trên thế gian này thì sự đam mê này sẽ thay đổi bởi vì bất cứ vật gì rồi cũng sẽ bị thời gian vô thường thay đổi, biến hoại.Muốnđạt được hạnh phúc, thỏa mãn dục lạc, con người phải ra sức tìm cầu, phải tạo dựng để gặt hái kết quả. Con người cần có nhà đẹp, xe tốt, nhiều tiền, danh vọng, ăn ngon, mặt đẹp . . . nên phải cố gắng làm lụng vất vã, chịu đủ sự khổ đau nhọc nhằn đến với bản thân như ốm đau bệnh tật, chịu đựng nắng gió, mưa lạnh và vô số chướng ngại khác để đạt được mục tiêu, có khi còn phương hại đến cả tính mạng. Vì lý do này hay lý do khác, con người không ngừng cố công tìm cầu nhằm thỏa mãn cái mà người ta gọi là “giá trị của cuộc sống”. Nhưng cuộc sống thì không đứng yên, giá trị cuộc sống mà con người quan niệm thay đổi từng giây, từng phút. Cái giá trí của ngày hôm qua thì hôm nay đã bị thay thế bằng một cái khác, giá trị hơn. Cuộc tìm cầu“giá trị của cuộc sống” cứ xoay quanh lẩn quẩn, xem ra không có lối thoát. Nhưng rồi con quỷ vô thường không tha cho một ai cả, những gì con người trân quý thì cũng không nắm giữ nó mãi. Con người sẽ khổ đau khi tài sản, hạnh phúc tan rã, cuộc sống gặp trắc trở rủi ro. Họ sẽ buồn khóc, than trời, trách đất và thái độ tiêu cực đó chỉ mang lại cho bản thân họ thêm khổ đau vướng mắc. Vì thế đức Phật dạy rằng “Này các Tỳ kheo, nếu thiện nam tử ấy nỗ lực như vậy, tinh cần như vậy, tinh tấn như vậy mà tài sảnấy không đến tay mình, vị ấy than vãn, buồn phiền khóc than, đấm ngực mê man bất tĩnh: ‘ôi! sự nỗ lực của ta thật sự vô ích, sự tinh cần của ta thật sựkhông có kết quả’. Này các tỳ kheo, như vậy là sự nguy hiểm của các dục”.
Nhưng làm thế nào để thoát khỏi khổ ách?
Tuy Bát Nhã Tâm Kinh chỉ vỏn vẹn có 260 chữ, nhưng quan trọng nhất của Tâm Kinh vẫn nằm ở câu đầu: “Quán tự tại Bồ-tát hành thâm Bát-nhã Ba-la-mật-đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhứt thếkhổ ách”. Đoạn kinh Bát Nhã này chú trọng đến vấn đề thoát khổ. Con người sẽ thoát khổ, theo Bát-nhã, khi thực hành trí tuệ Bát-nhã sâu xa soi rọi rõ ngũ uẩn là Vô ngã tức là Không. Thấy biết ngũ uẩn là Vô ngã là thấy biết tất cả các pháp là Vô ngã nghĩa là khổ là Vô ngã và người cảm thọ khổ cũng là Vô ngã, bởi cả hai đều là duyên sinh. Như thế rõ ràng, không thực có khổ, cũng không thực có cái gọi là con người thọ khổ, thì hẳn là không còn có một thứ khổách nào ràng buộc cả. Quan trọng nhất là chúng sinh thấy rõ ngũ uẩn là Vô ngã thì không còn chấp thủ ngũ uẩn là mình, là của mình, hay là tự ngã của mình nghĩa là thân này không phải là Ta, là của Ta và thế gian vạn vật cũng không phải là của Ta. Chấp thủ diệt thì ái diệt, khổ diệt. Đấy là ngõ vào giải thoát.
Tóm lại, một khi đã thực sự nhận biết rốt ráo rõ ràng rằng trong ta không hề có “Cái Ta” hay “Cái của Ta” thì lúc đó chúng ta sẽ khám phá một chân lý tuyệt vời độc nhất vô nhị, là tinh hoa cốt tủy của Phật giáo mà ngày xưa chính đức Phật đã chứng dưới cội Bồ Đề là Chân lý Vô Ngã. Đó là:
–Thân thể này không phải là tôi, là của tôi.
-Những cảm thọ sướng khổ cũng chẳng liên quan gì đến cái tôi.
-Cái tâm đang quán sát cũng không phải là linh hồn của tôi.
-Và tất cả những đối tượng của tâm như ý thức và hành thức cũng không phải là của tôi.
Tuy căn bản của phiền não là Kiến hoặc và Tư hoặc, nhưng cái gốc để tạo ra những phiền não đó chính là chấp Ngã. Chấp Ngã đã phá thì chấp pháp cũng theo đó mà diệt bởi vì trong thì Ngã Không và ngoài thì Pháp Không, trong ngoài tự tại tức là có giải thoát. Vì thế nếu diệt được chấp Ngã thì tất cả những vô minh phiền não cũng tan biến theo.
Ngày xưa, khi đức Phật chưa chứng quả giải thoát thì tham sân si, các lậu hoặc và ham muốn vẫn thỉnh thoảng dấy khởi, vướng mắc. Vấnđề này khiền Ngài ưu tư và cuối cùng nghĩ ra rằng: “Chỉ một mình quán nhưthật các dục vui ít khổ nhiều chưa đủ mà phải hành thiền để chứngđược hỷ lạc do ly dục sanh mới có thể nhiếp phục và đoạn trừ các dục”.
Như vậy, hành thiền chứng được hỷ lạc do ly dục là thoát được dục lạc, kinh nghiệm này của đức Phật đã mở ra một đường hướng đểgiải quyết vấn đề dục lạc. Điều quan trọng mà chúng ta thấy ở đây là muốn hành thiền theo phương pháp của đức Phật thì phải “ly dục, ly bất thiện pháp” bởi vì dục và bất thiện pháp là chướng ngại của thiền, là kẻ thù cần loại bỏ của thiền.Nói rõ hơn, thiền không phải là một pháp môn trong 84.000 pháp môn tu của đạo Phật (Đại thừa), mà thiền là mạng mạch, là cốt lõi của đạo Phật. Nhờ hành Thiền mà Thế Tôn đã chứng ngộ và khai sáng ra đạo Phật. Suốt 49 năm hành đạo của Ngài, đức Phật thực hành thiền với nhiều hình trạng khác nhau và trong suốt thời gian hành đạo này, Ngài luôn hành thiền trong cả bốn oai nghi, trong khi sinh hoạt, khất thực, thọ trai, … và tất nhiên vẫn luôn toạ thiền.
Khi đã thông hiểu tính vị tha vô ngã thì con người có thể khắc chế được tâm tham đắm dục lạc, bớt lòng ích kỷ, hướng về cứu giúp chúng sinh để phát triển Bồ-đề tâm.Chúng sinh nên lấy từ bi và trí tuệ làm gốc. Bởi vì từ bi là tình thương không phân biệt thân sơ và chính là tình thương chân thật bìnhđẳng, nhưng từ bi mà không có trí tuệ thì từ bi dễ bị tình cảm chi phối, thiếu sáng suốt và yếu đuối dễ bị sa ngã. Còn trí tuệ mà thiếu từ bi thì thành trí tuệ khô tức là sự khôn ngoan mánh lới chỉ làm lợi ích cho riêng mình, phát triển tánh tham tật đố và tăng trưởng bản ngã.
-Này Vô Tận Ý, Bồ-tát Quán Thế Âm oai thần vòi vọi như thế, cho nên chúng sanh phải một lòng tưởng nhớ.
8)Người nữ nào lễ bái, cúng dường Bồ-tát Quán Thế Âm để cầu con trai thì được con trai phước đức trí tuệ, còn muốn cầu con gái thì được con gái hình tướng xinh đẹp, trồng sâu cội phước, người người kính mến.
Khi chúng sinh phát khởi một niệm giác ngộ để sống đúng với chân lý là mình đã cúng cho một vị Bồ Tát. Phát khởi một niệm khác lợi ích cho chúng sinh và sống đúng với chân lý là cúng dường cho hai vị Bồ Tát. Cứ như thế mà nghĩniệm lành, nói lời thiện, làm việc tốt cho chúng sinh là mình đã cúng dường cho vô số chư Bồ Tát trong mười phương rồi. Phải chăng chữ “Bồ Tát” muốn ám chỉtrong đoạn kinh này là chúng sinh vì trong tất cả mọi chúng sinh ai ai cũng đều có Bồ Tát tâm, Bồ Tát tánh như nhau, không sai khác. Trong Phật giáo, Pháp cúng dường là hơn hết trong các cách cúng dường. Đó là chúng sinh đúng theo lời Phật dạy mà tu hành để cúng dường. Làm lợi ích cho chúng sinh để cúng dường. Nhiếp thọ chúng sinh để cúng dường. Thay thế sự khổ ách cho chúng sinh để cúng dường. Siêng tu căn lành để cúng dường. Chẳng bỏ hạnh nghiệp Bồ Tát để cúng dường. Vì thế chúng sinh có đem vô lượng công đức của tài cúng dường cũng không bằng một phần trăm, một phần nghìn của Pháp cúng dường vậy.
Nếu có chúng sinh cầu có con trai sẽ sinh được con trai nghĩa là nếu chúng sinh muốn tu phước đức trí tuệ thì chắc chắn sẽ được phước đức trí tuệ. Con trai ở đây là phước đức trí tuệ, là nguồn sống chân thật của mình chớ một vị Đẳng Giác Bồ Tát như Đức Quán Thế Âm đâu có giúp chúng sinh tăng trưởng thêm lòng tham dục, muốn gì được nấy, trái với luật nhân quả khách quan của thế gian vũ trụ. Vì thế nếu chỉ hiểu trên chữ nghĩa chúng ta sẽ bị kẹt.
Có một nữ Phật tử muốn cầu con nên đến chùa gặp vị Ni cô dạy niệm Đức Quán Thế Âm thì muốn con trai sẽ có con trai. Cô Phật tử làm y như vậy, tuần nào cũng đến chùa cầu nguyện đức Quán Thế Âm rất chân thành. Nhưng đến khi sanh thì sinh con gái. Cô có vẻ bất bình tìm đến chùa để chất vấn vị Ni cô. Sư cô biếtđược nên cố tránh né không muốn gặp mặt. Dựa theo xác suất (probability) của toán học thì xác suất để đạt được bất cứ vấn đề gì có thể tăng hay giảm, ít hay nhiều, nhưng có thể xảy ra. Vì thế xác suất lời nói của Ni cô là 50% đúng nghĩa là cơ hội đúng rất cao. Ngay cả xác suất để trúng lô độc đắc là rất nhỏ có thểlà một trong hai trăm triệu, nhưng tuy là rất nhỏ nhưng hàng tuần vẫn có người trúng. Vậy khi trúng số không phải là Phật, hay Bồ Tát ban cho mà phước đức của mình đến lúc xuất hiện vậy thôi. Con cái, vợ chồng là do ân oán nhân duyên kết tập từ những đời quá khứ nên gặp lại nhau trong đời này. Nếu đời trước cha mẹnợ nần thì đời này con cái đến đòi nợ cho nên cả đời cha mẹ khổ vì con cái. Còn nếu đời trước con cái nợ nần cha mẹ thì sang đến đời này nó đến để đền ơn trảnghĩa nên đó là những đứa con hiếu để, biết thương yêu, lo lắng, chăm sóc cho cha mẹ. Vì thế Bồ Tát không can dự vào chuyện ân oán nợ nần của chúng sinh mà ban cho con trai, con gái hay bất cứ đứa con nào. Giả sử nếu Bồ Tát ban cho chúng sinh đứa con ngỗ nghịch, vào tù ra khám, giết cha hại mẹ thì chúng sinh nghĩ sao về ngài? Rất nhiều gia đình có liên tiếp ba bốn đứa con trai. Lại có gia đình có liên tiếp bốn năm đứa con gái. Nhưng phần lớn thì trai gái chen nhau là chuyện thường. Thế thì không phải cầu nguyện, van vái để được cái này, có cái kia. Có hay không có là do phước đức quả báo của mình đến lúc xuất hiện hay chưa vậy thôi chớ Bồ Tát không cho hay ban phát cho ai cái gì cả. Đạo Phật không dạy chúng sinh cầu nguyện vì có cầu cũng chẳng được mà đạo Phật chỉ dạy chúng sinh tin sâu vào nhân quả bởi vì chính đức Phật cũng phải đi xin cơm tín chúng thì lấy gì để Ngài cho. Nếu đức Phật và các đại đệ tử của Ngài linh thì họ chỉ cần niệm Úm Ba La Bát Nhi Hồng rồi phẩy cái phất trần thì đồ ăn, thức uống hiện ra trước mặt, nhưng tại sao hằng ngày họ cũng phải đi hóa duyên? Dođó không có vấn đề linh hay không linh trong Phật giáo bởi vì đức Phật Thích Ca chỉ là một đấng đạo sư vô thượng chớ không phải là đấng thần linh. Ngài dạy chúng sinh lau sạch bụi vô minh phiền não thì sẽ có thanh tịnh an lạc Niết bàn. Nếu y giáo phụng hành thì đây là linh vậy. Do đó nếu hiểu kinh điển một bên hay hiểu theo sự tướng bề ngoài thì rất nguy hiểm dễ rơi vào mê tín dị đoan, khiến tâm bất tịnh.
Do đó không có chuyện ai cầu con trai Bồ Tát cho con trai hay cầu con gái thì Bồ Tát cho con gái. Đây là nói theo nghĩa đen của kinh (sự tướng) còn thâm ý của kinh thì con trai đồng nghĩa với phước đức trí tuệ và con gái tức là đoan chính tứ hảo. Đặc biệt hơn nữa muốn cầu con trai được con trai, cầu con gáiđược con gái nói lên công đức bất khả tư nghì của người niệm Bồ Tát Quán ThếÂm. Do công đức thù thắng bất khả tư nghì nên người niệm danh hiệu ngài mọi việc được như ý. Nhưng cao hơn hết, niệm Quán Thế Âm là xoay lại với tánh nghe thanh tịnh huyền diệu tức là trở về sống với tánh giác, Tri Kiến Phật của mình thì mọi việc đều được như ý cho nên cứ y theo kinh mà giải nghĩa là hàm oan cho ba đời chư Phật và nếu hiểu kinh chỉ một bên thì tai hại vô cùng.
9)Cung kính lễ bái Quán Thế Âm phước đức không bao giờ mất và nhiều như phước đức của người niệm danh hiệu và cúng dường sáu muơi ức hằng hà sa Bồ-tát.
Người đệ tử Phật phải sáng suốt nhận định rằng chính đức Phật Thích Ca trong suốt 49 năm trời rày đây mai đó thuyết pháp độ sinh không ngừng nghỉ.Ngài dùng biết bao phương tiện : Ngài nói rộng, nói hẹp, nói đốn, nói tiệm, nói quyền, nói thật và sau cùng để lại cho Phật tử ba tàng giáo lý thì nếu đây không là “Phật gia bì” hay “Tha lực Phật” thì là gì? Nhưng trong Phật giáo không hề có chuyện van vái, cầu xin thế này thế kia để được Phật hay Bồ Tát gia bì bởi vì nó trái với quy luật nhân quả khách quan của hiện tượng vạn hữu trong thế gian vũ trụ. Đức Phật không phải là đấng thần linh vì thế “gia bì” hay “cứuđộ” trong Phật giáo phải được hiểu là thực hành đúng theo những giáo pháp của Như Lai đã dạy. Phương pháp quán niệm Bồ Tát Quán Thế Âm rất quan trọng vì thếngười đệ tử Phật khi tu học phẩm này này hãy gác qua tình cảm do tập quán và truyền thuyết dân gian hời hợt. Chúng sinh hãy tìm hiểu kinh điển qua sự thấy biết, tư duy vận động lý trí có tánh khách quan thì mới có thể nhận chân giáo lý và mới có thể biết được sự thật về những điều huyền diệu mà đức Phật đã dạy chúng ta.
Đức Phật dạy rằng công đức người niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm so với người niệm và cúng dường vô số chư Bồ Tát khác ngang nhau và nhiều vô tận. Vì sao vậy? Bởi vì niệm vô số danh hiệu chư Bồ Tát khác là mục đích trở về với Tri Kiến Phật trong khi đó niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm cũng trở về với Tri Kiến Phật, trở về với tánh giác, chơn tâm hằng sáng thanh tịnh vốn có sẵn trong mỗi chúng sinh thì mọi nguyên nhân gây ra phiền não khổ đau không còn thì không còn phước đức nào lớn hơn. Niệm ở đây không phải chỉ là niệm ngoài miệng, niệm suông mà niệm nghĩa là quay vào để lắng nghe tiếng Diệu Âm, là âm thanh huyền diệu phát ra từ tánh giác trong sáng của chính mình. Từ đó chúng sinh sẽ luôn sống trong tỉnh thức chánh niệm, luôn làm chủ tâm mình, tránh xa mọi ảo vọngđiên đảo, loại bỏ những tư tưởng thấp hèn, không còn bị tham-sân-si sai sử thìđây mới chính là công đức thù thắng bất khả tư nghì của người niệm Bồ Tát Quán Thế Âm.
Vô Tận Ý bạch:
-Thế Tôn ! Bồ-tát Quán Thế Âm làm thế nào mà dạo khắp Ta-bà? Sức mạnh phương tiện của Bồ-tát như thếnào?
Phật bảo:
–Nếu có chúng sanh quốc độ nào cần thân Phật mới độ thoát họ được, thì Bồ-tát Quán Thế Âm liền hiện thân Phật mà thuyết pháp cho họ nghe. Nếu cần thân Duyên Giác, thân Thanh Văn, thân Phạm Vương, thân Đế Thích, thân Tự Tại Thiên, thân Thiên Đại Tướng Quân, thân Tỳ-Sa-Môn, thân Tiểu Vương, thân Trưởng Giả, thân Cư-Sĩ, thân Tể Quan, thân Bà-la-môn, thân Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni,, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, thân con trai, thân con gái, thậm chí đến thân Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-dà, cùng không phải loài người, để độ thoát một chúng sanh của một quốc độ nào đó, thì Bồ-tát Quán Thế Âm tùy trường hợp mà hiện thân ấy để hoá độ.
–Vô Tận Ý, Bồ-tát Quán Thế Âm thành tựu công đức như thế, dùng các thứthân hình, dạo cùng các nước mà độ thoát chúng sanh, vì vậy chúng ngươi phải “nhất tâm” cúng dường. Bồ-tát Quán Thế Âm còn được cõi Ta-bà gọi là “ Người bố thí vô uý” vì trong hoàn cảnh sợ hãi tai nạn nguy cấp, Bồ-tát có khảnăng làm cho hết sợ.
Thế nào là thế giới Ta Bà?
Ta Bà là kham nhẫn nghĩa là chúng sinh ở trong cái thế giới tâm có nhiều phiền khổ, bức ách mà vẫn phải cam tâm nhẫn chịu. Nếu hiểu theo “sự tướng” thì Bồ Tát Quán Thế Âm có đủ thần thông diệu dụng nên ngài dạo khắp thế giới Ta Bàđể lắng nghe từng nỗi khổ của nhiều hạng người và sau đó tuỳ trường hợp mà cứuđộ họ. Nhưng hiện thân thế nào? Bồ Tát Quán Thế Âm có Hiện Nhất Thiết Sắc Thân tam muội nên có thể ứng hiện bất cứhình tướng nào theo ý muốn? Bất cứ ai sống trong thế giới Ta Bà cũng đều cưu mang nỗi khổ từ hình thức này đến hình thức khác, nặng nhẹ khác nhau. Quan trọng nhất là hãy nhìn lại chính mình. Từ khi lớn lên đến giờ chúng ta phải cam chịu biết bao nỗi khổ từ tinh thần đến vật chất. Có những lúc quá khổ, chúng ta cũng cầu nguyện Bồ Tát, nhưng cái khổ, cái nghèo đâu có hết? Nếu cầu nguyện BồTát làm thế gian hết khổ, hết tai nạn thì tại sao hằng ngày con người vẫn còn khổ, tai nạn, thiên tai, động đất vẫn xảy ra khắp mọi nơi? Thế thì không lẽkinh nói sai?
Mới đây nhất ngày 11 tháng 3 năm 2011 ở Nhật Bản có trận động đất với cường độ 9.0 mang theo nhiều ngọn sóng thần cao đến 40 thước (133 ft) đã quét sạch nhiều thành phố dọc theo bờ biển về phía Đông Bắc. Có trên 15.846 người chết, 3.320 người mất tích và trên 125.000 tòa nhà lẫn cao ốc bị hủy diệt. Nhật Bản là quốc gia Phật giáo cho nên khi gặp biến cố tai trời ác nước như thế thì dĩ nhiên ai cũng cầu nguyện Bồ Tát Quán Thế Âm đến cứu giúp, nhưng nếu có thì tại sao số người chết và sự tàn phá cao đến như vậy? Ngoài động đất, còn có núi lửa, bảo tố và biết bao thiên tai khác đã giết hại con người khắp mọi nơi trên thế giới. Vì vậy, sự sống chết của con người là do ân oán nhân quả của họ cho nên Phật trời không bao giờ can dự vào. Nếu một người gieo rất nhiều thiện nghiệp, phước đức quá to lớn đến lúc gặp nguy nan, hoạn nạn thì có kẻ khác ra tay giúp trả lại thế thôi. Vì thế cứu độ ở đây phải được hiểu là Bồ Tát Quán Thế Âm phát ra tiếng nói thánh thiện từ trong lòng của mỗi chúng sinh để nhắc nhở, khuyến khích, động viên họ làm việc lành, tránh việc ác và giữ tâm ý chođược thanh tịnh thì cuộc sống sẽ có an vui, tự tại. Nên nhớ ngày xưa đức Phật Thích Ca hằng ngày cũng phải ôm bình bát đi xin cơm thính chúng, nếu Ngài có thần thông diệu dụng thiên biến vạn hóa, chỉ cần niệm thần chú thì bát cơm tự đầy cần gì phải đi xin. Nếu đức Phật không làm được thì không có một vị Bồ Tát nào có thể làm được. Vì thế không có chuyện Bồ Tát thương người này và không cứu giúp người khác, tất cả đều là do nhân quả ứng hiện mà ra. Nói cách khác, mình gieo nhân thì tự gặt lấy quả, hoàn toàn không có một tác nhân của Phật, Chúa Trời, Thần, Quỷ … can dự vô nhân quả của mình được. Mình gieo nhân tốt, không cần sự cứu rỗi của ai cũng được sanh lên các cảnh giới chư Thiên. Nếu mình làm chuyện bất thiện thì sau khi chết, nghiệp bất thiện nầy tương ứng với cảnh giới của những người bất thiện, khiến tâm thức của người ấy sanh về cảnh giới chịu khổ sở để trả quả báo ác độc chớ không có một vị thần nào đày ta xuống cõi âm ti, địa ngục cả. Lương tâm là tòa án công bằng nhất của mỗi người, mình dối người khác được nhưng không bao giờ dối nổi lương tâm mình.
Tóm lại, Thần có nghĩa bất tư nghì, việc làm mà người thường không thể làm được. Thông có nghĩa là vô ngại, thông suốt tức là không còn ngăn ngại.thần thông được hiểu là bất tưnghì, vô ngại tự tại. Vô ngại tự tại đối với những việc khó tự tại để vượt qua những thử thách mà người thường không thể nào tự tại được. Vì vậyngười có thần thông là người mà lục căn được sức tự tại vô ngại một cách bất tư nghì (không thể nói được) mà đối với một người thường không nghĩ đến được, không thực hành được, không thể chiến thắng được những dục vọng làm ô nhiễm tâm ý của mình. Đó là mắt đối với sắc, tai đối âm thanh, lưỡi đối với mùi vị, mũi đối với hương vị,thân đối với cảm xúc và ý đối với pháp trần mà vẫn được tự tại vô ngại một cách bất tư nghì, không bị lôi cuốn, nhận chìm trong bể ái sông mê.
Cái tinh hoa của Phật giáo là phát triển trí tuệ và sống bằng trí tuệ nên Phật giáo là khoa học và vượt hẳn khoa học vì tất cả những gì đức Phật tìm ra con đường giải thoát giác ngộ rất phù hợp với tiến trình khám phá của khoa học và ngày nay khoa học cũng nương theo con đường đó mà phát triển mạnh. Thống kê mới nhất năm 2011 cho thấy những quốc gia Tây phương và Hoa Kỳ thì số người tin vào Thượng đế và thần quyền đang trên đà sa sút trầm trọng. Ngay cả những người tuy vẫn còn tin vào Thượng đế, nhưng họ rất thất vọng ê chề với hệ thống tôn giáo rườm rà, quá chú trọng vào hình thức và những giáo điều lỗi thời đi ngược lại với dòng tiến hóa của nhân loại nên họ không còn muốn đi nhà thờ nữa. Ngược lại số người tin vào thuyết nhân quả, lý nhân duyên và con đường tự giác củađạo Phật càng ngày càng gia tăng. Con người cảm thấy hạnh phúc hơn, hãnh diện hơn, tự tin và thoải mái hơn khi họ nhận những kết quả tốt đẹp mà do chính tựtay họ gieo. Vì thế không có nhân bản, đạo đức nào bằng nhân bản, đạo đức củađạo Phật.
Ngay cả nhà bác học Albert Einstein cũng nói:”Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo của hoàn cầu, vượt lên trên mọi thần linh, giáo điều và thần học. Tôn giáo ấy phải bao quát cả hai phương diện tự nhiên và siêu nhiên, đặt trên căn bản của ý thức đạo lý, phát xuất từkinh nghiệm tổng thể gồm mọi lĩnh vực trong cái nhất thể đầy đủ ý nghĩa. Phật giáo sẽ đáp ứng đầy đủ các điều kiện đó. Nếu có một tôn giáo nào đương đầu với các nhu cầu của khoa học hiện đại thì đó là Phật giáo. Phật giáo không cần xét lại quan điểm của mình để cập nhật hóa với những khám phá mới của khoa học. Phật giáo cũng không cần từ bỏ những quan điểm của mình để xu hướng theo khoa học, vì Phật giáo bao hàm cả khoa học cũng như vượt qua khỏi khoa học”.
Khi tâm của chúng sinh đang bị dày vò, buồn bực, đau khổ, phiền muộn, đau thương, trắc trở, rối rắm, bất bình, bất mãn, bất an thì lúc đó chúng ta đang ởtrong thế giới Ta Bà. Nhưng khi chúng sinh nhớ đến Bồ Tát Quán Thế Âm nghĩa là chúng ta nhớ đến Chánh niệm tỉnh thức nên quay về sống với Tri Kiến Phật hằng hữu thì tất cả những ưu phiền đó tan biến vì vậy kinh mới nói Bồ Tát độ chúng sinh trong cõi Ta Bà là vậy. Vì thế khi không còn phiền não khổ đau thì ngay thời điểm đó chúng ta đang vãng sinh từ thế giới đau khổ sang thế giới an tịnh, nhẹ nhàng thanh thoát tức là mình đang sống trong cõi cực lạc rồi. Cốt tủy của kinh Pháp Hoa là giúp chúng sinh “khai, thị, ngộ, nhập Phật tri kiến” nghĩa là đức Phật muốn khai mở, chỉ bày, làm tỏ ngộvà thâm nhập cái thấy biếtcủa Phật vốn đã có sẵn trong tất cả mọi người. Như vậy đức Phật giúp chúng sinh mở toang và thanh tịnh hóa trí tuệ Phật của họ để nhận biết như thật về tánh Vô Ngã và thuyết Duyên Khởi của các pháp. Vì thế niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm chỉ là quay về với tánh giác hằng sáng của mình để thanh tịnh hóa cái tri kiến Phật đó. Đạo Phật là đạo tin sâu vào nhân quả cho nên bất cứ giáo điều nào ra ngoài nhân quả thì chắc chắn đó không phải là của Phật giáo.
Hiện nay có trên sáu tỷ người trên thế giới trải khắp năm châu bốn bể nên không có chuyện Bồ Tát Quán Thế Âm hiện thân bằng hình tướng này hay hình tướng nọ để an ủi, cứu giúp họ. Mà huyền nghĩa của kinh là Bồ Tát Quán Thế Âm hiện thân chính ở ngay trong tất cả mọi người. Tâm tưởng con người biến đổi từng giây, từng phút. Thí dụ có những lúc chúng ta giận dữ, cố đấu tranh hơn thua là giây phút đó chúng ta đang sống trong cảnh giới của A tu la. Nếu bấy giờ chúng ta niệm Bồ Tát Quán Thế Âm thì ngài hiện đến thế giới A tu la đó nghĩa là từ trong lòng ta phát ra những Diệu Âm để hóa giải hết giận hờn, tranh chấp tức là đưa chúng ta thoát ra khỏi cõi A tu la. Nếu tâm ta đang phát khởi những niệm lành và muốn phát triển thêm hạnh lành nên niệm Bồ Tát Quán Thế Âm thì Bồ Tát liền hiện trong cái tâm lành của ta bằng với thập thiện nghiệp đó tương ứng với các chư Thiên để khuyến khích, giúp đở ta thành tựu ý chí thiện đó. Vì thế bất cứtâm niệm nào cũng có thể tưởng niệm, tư duy quán chiếu tiếng Diệu Âm mầu nhiệm trong lòng mình để nhắc nhở trên con đường hoàn thiện của mình. Đó chính là khảnăng du hành tự tại của Bồ Tát ở cõi Ta Bà vậy.
Nói thế thì bất cứ ai ở đâu và làm gì cũng đều có Bồ Tát Quán Thế Âm ởtrong họ để nhắc nhở họ luôn làm lành lánh dữ, tránh xa dục lạc thấp hèn, luôn sống trong thức tỉnh chánh niệm, luôn làm chủ tâm mình thì cuộc đời sẽ không bao giờ có hoạn nạn, bao nhiêu khổ ách sẽ tan biến. Đó chính là thần lực nhiệm mầu của Bồ Tát. Cao hơn nữa, Bồ Tát còn khuyến khích họ quay về sống với chơn tâm, Phật tánh hay Tri Kiến Phật hằng sáng thì cuộc sống sẽ trở thành thanh tịnh tự tại Niết bàn.
Chúng sinh sắp làm bất cứ việc thiện hay ác gì thì Bồ Tát Quán Thế Âm cũng nhắc nhở, khuyến khích hay cảnh báo trước. Nếu con người biết nghe theo và thực hành đúng những Diệu Âm đó thì chính họ sẽ có nhiều lợi ích và tránh xa biết bao tai họa. Thí dụ có người muốn đi cướp nhà băng hay có ý định giết người thì Bồ Tát Quán Thế Âm liền cảnh báo cho biết tai họa sắp xãy ra, nhưng vì vô minh tham dục che lấp khiến họ không nghe theo Diệu Âm nên mới phải vào tù chịu khổ.Một khi đã bị bắt hay vào tù tức là nhân đã thành quả rồi thì Bồ Tát Quán ThếÂm cũng đành bó tay, không giúp gì cho ai được.
Vì sự huyền diệu đó mà Bồ Tát Quán Thế Âm Âm có thể hiện trên sáu tỷ thân người là như vậy nghĩa là thế giới có bao nhiêu con người là có bấy nhiêu hiện thân của Bồ Tát Diệu Âm. Tiếng nói Diệu Âm này không nhất thiết chỉ dành cho Phật tử, những người quy y Tam Bảo, mà nó có trong tất cả mọi chúng sinh. Người theo đạo Thiên Chúa giáo cũng có tiếng nói này, kẻ theo đạo Bà la môn cũng nghe rất rõ Diệu Âm này. Thậm chí, những người không theo bất cứ tôn giáo nào thì tiếng nói Diệu Âm vẫn réo gọi trong tâm hồn họ rất huyền diệu chằng sai khác vì tất cả mọi chúng sinh đều có sẵn Phật tánh (Buddha Nature) rồi.
Thế nào là chúng sinh phải “nhất tâm” cúng dường đức Quán Thế Âm?
Ở đây kinh không dạy chúng sinh cúng dường đức Quán Thế Âm bằng hương, hoa, quả hay những món quý giá, đắc tiền hữu vi sinh diệt vì Bồ Tát chẳng cần những thứ đó. Mà công đức lớn nhất là cúng dường nhất tâm. Nhất tâm là: “Niệm mà chẳng niệm”, nghĩa là vẫn niệm nhưng chẳng có thêm vào một ý niệm là có tađang niệm. “Chẳng niệm mà niệm”, lúc này, danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm cứ tuôn chảy tự nhiên như dòng thác mà chẳng gián đoạn. Do đó, căn bản của nhất tâm là không có tâm phân biệt “niệm” hay “không niệm”, “phân minh” hay “không phân minh. Nói cách khác người có nhất tâm là người có Chánh niệm, Chánh định và từ đó họ sẽ hóa giải hết tất cả những phiền não, khổ đau. Thí dụ mình đang đau khổcực độ, nhưng nếu có nhất tâm, chánh niệm liền niệm danh hiệu Quán Thế Âm đểquay về sống với tánh giác hằng sáng thanh tịnh thì những đau khổ đó sẽ tức thì biến mất. Vì hết đau khổ, hết lo sợ nên người ở Ta Bà gọi ngài Quán Thế Âm là người bố thí pháp vô úy.
Vô úy là không sợ vì thế pháp vô úy thí là phương pháp giúp cho người khác không còn lo sợ. Nghĩ lại, cái sợ đã chiếm quá nữa cuộc đời của con người. Khi còn nhỏ, chúng ta sợ rắn rít, bò cạp, sợ bóng tối, sợ ma…khi lớn lên thì sợthiếu ăn, thiếu mặc, sợ cô đơn, sợ giặc, sợ thi rớt, sợ tai nạn, sợ kiếm không ra việc làm, sợ thiếu công danh sự nghiệp, sợ thua sút bạn bè, khi già thì sợ đau, sợ bịnh, và cuối cùng là sợ chết. Nếu muốn kể cho hết tất cả những nỗi sợ,thì phải nói cả đời vẫn chưa xong. Đời sống hàng ngày đã khổ, lại càng khổ thêm vì sợ. Cho nên làm cho họ hết sợ chính là đã cứu cho họ bớt đi quá nữa nỗi khổ đau trong kiếp sống này. Muốn giúp người, trước hết chúng ta phải luyện cho mình một đức tính đừng sợ. Làm thế nào màđạt đến điều này? Khi đã hiểu thuyết vô thường của nhà Phật thì chúng ta không còn sợ cái gì cả, bởi vì nếu không tham lam tiền của thì chúng ta không sợ mất, không màng danh lợi thì không sợ thất vọng, cái thân tứ đại này là giả tạo nên không sợ chết. Con người có lo sợ, có đau khổ cũng vì sống trong vọng tưởng, bất giác vô minh, không đúng với chân lý, bây giờ chịu quay về nhất tâm niệm danh hiệu Quán ThếÂm tức là trong tâm chỉ có danh hiệu Bồ Tát chớ không còn vọng niệm nào khác thì lúc đó vọng tưởng tiêu tan, ý niệm tham đắm biến mất thì hết lo sợ, đau khổ, buồn phiền.
Như vậy phương pháp tốt nhất có thể tạo ra một môi trường hạnh phúc và an bình chân thật là pháp thí vô úy tức là làm cho người khác không còn sợ hãi vì trong ý nghĩa sâu thẳm nhất của vô úy thí đồng nghĩa với giải thoát và hạnh phúc. Ở đây Bồ Tát Quán Thế Âm được gọi là “thí vô úy giả” tức là người bố thí sự không sợ hãi. Nhưng bên cạnh nhân cách lý tưởng trên, còn có một mẫu người thứ hai cũng có thể đem sựkhông sợ hãi đến cho chúng sinh. Đó là những người ngang qua nỗ lực cao đẹp và phi thường của tự thân đạt đến con đường giải thoát Giới, Định, Tuệ và tri kiến giải thoát một cách trọn vẹn. Nhưng chính đức Phật Thích Ca xuất hiện trong cuộc đời này là vì lòng từ bi vô lượng của Ngài luôn luôn được hướng đến tất cảchúng sinh, do vậy đức Phật là một nhân cách toàn thiện cả hai đức tính từ bi và trí tuệ mà vô úy nghĩa là không sợ hãi là kết quả của lòng từ bi và trí tuệ đó.
Trên thế gian này, bất cứ sự thành tựu nào mang tính sáng tạo luôn luôn là kết quả của một sự kiên nhẫn phi thường và một sự tập trung cao độ. Các nhà bác học, các vĩ nhân đã miệt mài, tận tụy nghiên cứu trong các phòng thí nghiệm vì thế mọi sáng tạo, những phát minh đều là sản phẩm của sự tập trung (thiền định) tột cùng. Dĩ nhiên trong lãnh vực chứng đắc tâm linh việc này lại càng rõ ràng hơn. Sự chứng ngộ của đức Phật tại Bồ Đề đạo tràng sau 49 ngày đêm thực hành thiền định được xem như là một biểu mẫu cụ thể và hùng hồn nhất cho sự thật đó. Nhưng một thành phần cốt yếu giúp Ngài thanh tựu đạo quả Bồ Đề là Ngài thực hành tứ vô lượng tâm: từ, bi, hỷ, xả với cấp độ cao nhất. Vì thế thực hành từ,bi, hỷ, xả và luôn sống trong tỉnh thức chánh niệm chắc chắn sẽ khiến cho phiền não, khổ đau biến mất trong tâm thức của con người, đem lại an lạc, hạnh phúc và xóa đi những lo sợ cho cuộc sống.
Do “tưởng” điên đảo nên phóng hiện ra hình ảnh ma quái khiến chúng ta lo sợ. Vì thế chủ đích của phẩm này là phá tưởng uẩn để trở về sống với cái chân thật, với trí tuệ Phật hằng sáng trong ta. Vì thế niệm danh hiệu ngài Quán ThếÂm thì những ý niệm điên đảo, ma quỷ tiêu tan ngay khiến chúng ta yên ổn, hết sợ hãi thế thôi. Cao hơn nữa, niệm Quán Thế Âm là trở về với tánh giác hằng sáng thanh tịnh của ta thì tất cả những vọng niệm điên đảo sẽ tan biến nên không còn cái gì để lo sợ, buồn phiền. Nhưng cao hơn hết, niệm danh hiệu Quán Thế Âm là trở về với Tri Kiến Phật, là cái thể chân thật của mỗi người, vô hình vô tướng, thì làm sao lửa đốt, nước nhận chìm, hay ma quỷ hại được nên hết lo sợ và mọi hiểm nguy đều hóa giải.
Niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm là quay về lắng nghe âm thanh vi diệu nghĩa là quay về sống với tỉnh thức chánh niệm để làm chủ thân, tâm của mình ởmọi thời và mọi nơi. Chánh niệm là biết rất rõ mọi biến hành của thân và tâm. Ngược lại người không sống trong tỉnh thức chánh niệm thì ăn không biết mình ăn, mặc không biết mình đang mặc, thở không biết mình đang thở. Chánh niệm là trạng thái trước khi biểu tượng hình thành và nó vượt ra ngoài mọi lý luận của ý thức. Chánh niệm phản chiếu những gì đang xảy ra ngay trong sát na hiện tại và không có chút thiên vị vì vượt ra ngoài tầng ý thức phân biệt. Chánh niệm là sự quan sát không có phán đoán, là sự theo dõi vô tư, không bị mê đắm bởi những trạng thái tâm tốt và không cốgắng lẫn tránh những trạng thái tâm không tốt và nó cũng không bám theo theo sự dễ chịu hay trốn chạy cảm giác khó chịu. Vì thế Chánh niệm không phải là ý thức suông việc làm của mình mà phải thấu biết rõ ràng tức là tuệ tri những biến hành của thân, tâm từng sát na, từng hơi thở ra vào.
Nhắc lại, trong phẩm Dược Vương Bồ Tát thì Bồ Tát Dược Vương đốt thân và hai tay để cúng dường Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức thì đây là bố thí nội tài. Kế đến phẩm Diệu Âm Bồ Tát vãng lai thì Bồ Tát Diệu Âm đã sử dụng 10.000 thứ kỹnhạc và đem 84.000 cái bát ăn cơm làm bằng châu báu để cúng dường cho Phật Vân Lôi Âm Vương thì đây là bố thí ngoại tài. Đến phẩm này, Bồ Tát Quán Thế Âm bốthí vô úy.
Bố thí là một quan niệm sống, một nghệ thuật sống cao đẹp, phát sinh từtâm từ bi. Nếu không có tâm từ bi thì không thể thực hành hạnh bố thí. Ngoài ra, muốn bố thí đạt đến cứu cánh, thì phải hợp với tinh thần Ba la mật mà kinh Kim Cang gọi là “Bố thí vô tướng, độsinh vô ngã” nghĩa là khi giúp người mà chúng ta hoàn toàn không thấy mình là người ban ơn, chúng sanh là kẻ chịu ơn. Có như vậy chúng ta mới phục vụngười khác bằng một tấm lòng trong sáng, không có tính toán, mưu mô.
Một điểm quan trọng khác là trong phẩm Dược Vương Bồ Tát thì Bồ Tát Dược Vương đốt thân và hai tay để cúng dường Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức thì đây là phá sắc uẩn.
Sắc uẩn là yếu tố vật chất bao gồm vật lý – sinh lý, có bốn yếu tố vật chất căn bản là đất (Tóc, lông, móng răng, da, thịt, gân, xương, tủy, thận, tim, gan, ruột, lá lách, phèo, phổi, bao tử, thực phẩm chưa tiêu, phẩn), nước (Mật, đàm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, nước mỡ, nước miếng, nước mũi, nước khớp xương, nước tiểu), gió (Gió hướng lên khiến ta nôn, gió hướng xuống giúp nước tiểu và phẩn ra ngoài, gió trong ruột, gió ngoài ruột nhưng nằm trong bụng, mọi tác động của cơ thể như đi, đứng, ngồi, co, duỗi v.v…hơi thở ra vào), lửa (Thân nhiệt, sức nóng làm cho cơ thể tưởng thành, già nua,nhiệt độ quá cao khiến chúng ta khó chịu và than phiền là quá nóng,nhiệt độ cần thiết để tiêu hóa thức ăn). Các yếu tố do bốn đại tạo ra thuộc về sinh lý như:mắt, tai, mũi, lưỡi, thân; các đối tượng của giác quan như: hình sắc, âm thanh, mùi vị, vật xúc chạm.Khi tứ đại kết hợp thì chúng ta có hình dáng và nếu không nhìn bằng cặp mắt trí tuệ thì chúng ta sẽ thêm vào cái hình dáng đó là Tôi, của Tôi, đàn ông,đàn bà…Do ý niệm sai lầm này khiến sự dính mắc phát sinh trong tâm ta. Như vậy yếu tốvật chất là thân thể hay ngoài thân thể, thuộc vật chất hay năng lượng, thuộc thời gian hay không gian đều bao hàm trong sắc uẩn.Thân thể là sắc uẩn, vì vậy chúng không phải là một thực thể độc lập mà là một hợp thể vật chất biến động và mâu thuẫn như mảng bọt trên mặt nước hay nếu nhìn kỹ ta sẽ thấy thân tứ đại chỉ là những bọt vật chất tạm bợ. Thân thể muốn tồn tại phải nương vào các duyên bên ngoài như ánh sáng mặt trời, thức ăn thức uống, không khí, nhà cửa, xe cộ…vì thế thân tứ đại là vô thường, vô ngã tức là Không.
Vì vậy bất cứ sự chấp thủ, tham ái thân thể (sắc uẩn), hoặc bất cứ mộtđối tượng vật lý, sinh lý nào cũng đều tiềm ẩn nguy cơ đau khổ cho nên đức Phật đã dạy rằng“Ai cho rằng sắc uẩn là Ta, là của Ta, là tự ngã của Ta thì chắc chắn gặt hái đau khổ, thất vọng, sầu muộn, vấp ngã và tai nạn”.
Kế đến phẩm Diệu Âm Bồ Tát vãng lai thì Bồ Tát Diệu Âm đã sử dụng 10.000 thứ kỹ nhạc để cúng dường cho Phật Vân Lôi Âm Vương thì đây là phá thọ uẩn.
Thọ uần:Thọ là cảm giác, do sự tiếp xúc giữa giác quan và đối tượng mà sinh ra thọ. Đức Phật dạy có sáu thọ: mắt tiếp xúc với hình sắc mà sinh thọ, tai với âm thanh, mũi với mùi, lưỡi với vị, thân với vật cứng-mềm, ý với đối tượng tâm ý. Cảm giác theo Phật giáo không dừng lại ở mức độ tiếp xúc đơn thuần mà là cảm xúc, một biểu hiện sâu hơn của cảm giác; cảm giác có ba loại: một là cảm giác khổ, hai là cảm giác vui sướng, ba là cảm giác không vui không khổ.Tất cả những loại cảm thọ ấy tạo thành một dòng sông cảm thọ tâm lý chi phối hệ thống tâm thức, chúng sinh khởi biến hiện thay đổi vô chừng; chúng chuyển biến vô tận, vô thường, vô ngã và hiện hữu có điều kiện. Chấp thủ vào cảm thọ bao giờ cũng sai lầm và gặt hái khổ đau.
Đến phẩm này, Bồ Tát Quán Thế Âm phá tưởng uẩn để giúp chúng sinh hết sợ.
Tưởng uẩn: là nhóm tri giác có khả năng nhận biết đối tượng là cái gì, đây là khả năng kinh nghiệm của sáu giác quan và sáu đối tượng của giác quan. Sự nhận biết đối tượng có hai loại: một là nhận biết đối tượng bên ngoài như mắt thấy sắc nhận biết đó là cái nhà, chiếc xe, tai nghe âm thanh nhận ra tiếng chim hót, tiếng khen, lời chửi mắng…; hai là khả năng nhận biết đối tượng bên trong, tức là các đối tượng tâm lý như những khái niệm, hồi tưởng, ký ức, kinh nghiệm… Như vậy, tưởng uẩn là cái thấy, cái biết của mình về con người, hoặc sự việc hay sựkiện. Vì vậy, tri giác là một trong những tác dụng của thức.
Sự có mặt của tri giác là sự có mặt của kinh nghiệm. Tri giác tùy thuộc vào những kinh nghiệm đã qua cho nên khi thấy đóa hoathì biết đây làđóa hoa bởi vì cái tri giác về đóa hoa đã có sẵn trong A lại da thức. Nhưng làm thế nào để biết đóa là đóa hoa? Khi ý thức muốn so sánh thì Mạt na thức liền chuyển tư tưởng đó vào A lạ da thức và sau khi so sánh các kinh nghiệm của các đóa hoa đã có trong đó xong thì một lần nữa Mạt na thức liền chuyển ý tưởng đó cho tưởng uẩn thành ra “tri giác” tức là “sựthấy” hay là “sự nhận ra” vật đó là đóa hoa. Vì vậy tri giác dễ bị đánh lừa bởi kinh nghiệm, do vì thực tại thì luôn sinh động.Vì sao? Bởi vì chúng ta chỉthấy đóa hoa dựa theo quan niệm của mình chớ không thấy thật tánh của đóa hoa tức là “tự nó thật sự là”. Khi nhìn đóa hoa chúng ta cho rằng mìnhđang nhìn đóa hoa, nhưng đóa hoa là tên do mình đặt cho nó chớ tự nó “không phải là” đóa hoa “hay là” đóa hoa. Mà thật chất của nó là sự tổng hợp của đất, nước, gió, lửa qua trùng trùng duyên khởi kết thành hình tướng rồi chúng ta đặt tên hình tướng đó là đóa hoa. Nói vậy thì trong đóa hoa có nước, nhưng chúng ta có thấy trời mưa hoa rơi xuống đâu? Trong hoa có ánh sáng mặt trời, nhưng ngoài trời đâu có rơi hoa? Trong hoa có phân bón, nhưng trong các thùng phân bón làm gì có hoa? Do đó thật tánh của hoa là không tánh vì hoa là do sự kết hợp của trùng trùng duyên khởi chớ đóa hoa không tự nó có hay tồn tại được. Vì vậy cái biết của tri giác là cái biết “không thật”mà là cái biết của duyên khởi cho nên tri giác tồn tại có điều kiện, vì vậy chúng vô thường, trống rỗng; và do duyên sinh nên tri giác đầy hư vọng mà ta thường gọi là vọng tưởng.
Ngoài sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn thì ngũ uẩn còn có hành uẩn và thức uẩn nữa. Phẩm Đà-la-ni kế tiếp là phá hành uẩn và sau cùng phẩm Diệu Trang Nghiêm Vương Bổn Sự là phá luôn thức uẩn.
Hành uẩn:Hành có nghĩa là các hiện tượng tâm lý mang tính chất tạo tác nghiệp, có năng lực đưa đến quả báo của nghiệp, nói cách khác là tạo động lực tái sinh. Hành uẩn là những hiện tượng tâm lý cònđược gọi là tâm sở. Duy thức học chia thành 51 tâm sở gồm cả thọ, tưởng, tức là cảm giác và tri giác cũng gọi là hành. Nhưng ở đây không xếp cảm giác và tri giác vào nhóm hành vì thọ và tưởng không có khả năng tạo nghiệp và quả của nghiệp.Hành uẩn tồn tại nhờ các điều kiện do duyên sinh nên chúng vô thường, trống rỗng và biến động bất tận.Mỗi uẩn chỉ có thể làm công việc của chính nó. Thọ uẩn chỉ kinh nghiệm lạc thọ, khổ thọ và vô ký thọ. Tưởng uẩn đóng vai trò nhận ra đối tượng là cái gì. Thức uẩn chỉlàm nhiệm vụ nhận biết đối tượng (chỉ biết thấy, biết nghe, biết ngửi v.v…). Nhưng hành uẩn có đặc tính là phản ứng hay tác động của tâm. Hành uẩn là nguyên nhân của đi, đứng, nằm, ngồi, co, duỗi, di chuyển, cười, nói, nghĩ, thấy, nghe… và tất cả những hoạt động khác.
Do sự kích thích của hành uẩn nên tất cả hành động vềthân, khẩu, ý xảy ra. Bởi vậy, thân, khẩu, ý là sự biểu hiện của hành uẩn, nhưng khi hành uẩn biểu hiện qua thân, khẩu, ý người ta hiểu lầm rằng: Đó là linh hồn, tự ngã, tôi, ta.
Thức uẩn: Thức là có khảnăng rõ biết, phản ánh thế giới hiện thực. Khi giác quan tiếp xúc với đối tượng, thực nhận biết sự có mặt của đối tượng, thức không nhận ra đối tượng ấy là gì, là cái gì, màu gì… đó là chức năng của tri giác (tưởng); thức chỉ nhận biết sự hiện diện của đối tượng giống như tấm gương phản chiếu tất cả những hình ảnh đi ngang qua nó. Thức có tám loại nên gọi là bát thức tâm vương: nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức, mạt na thức và A lại da thức. Thức là nền tảng của thọ, tưởng, hành. Thức là Tâm vương còn thọ, tưởng, hành là Tâm sở. Duy thức triển khai bát thức tâm với mục đích khai thác các khía cạnh sâu kín của thức. Mạt na thức là ý căn, là căn cứ của ý thức đồng thời nó cũng có tác dụng nhận thức sự tồn tại của một thực thể, một bản ngã. A lại da thức là cái kho dung chứa tất cả những chủng tử của kinh nghiệm, ký ức, kiến thức và tất cả những chủng tử thiện ác hay vô ký. Mặt khác, A lại da thức làm căn bản cho các hoạt động tâm lý trở về sau khi không còn điều kiện hoạt động. Nhờ khảnăng bảo tồn của A lại da thức mà các hiện tượng tâm lý phát khởi trở lại khi hội đủcác yếu tố.Có thể hiểu A lại da thức như là một cái kho chứa và Mạt na thức là người giữ kho. Chính Mạt na thức vào trong cái kho để chuyển các chủng tử ra hay vào mà Duy thức gọi là hiện hành hay biến hành và từ đó tưởng uẩn mới biết được vật đó là gì.
Mặc dù thức uẩn là nền tảng của tâm lý nhưng nó không tồn tại độc lập, không thể tự chủ bởi vì thức uẩn có tồn tại cũng bởi do duyên sinh. Thí dụ nếu không có sắc, thọ, tưởng, hành thì không thể nào có thức được cho nên mối quan hệ của ngũ uẩn là bất khả phân ly vì vậy đạo Phật không chấp nhận có một thức nào đó độc lập, tự chủ như khái niệm về một linh hồn bất tử chẳng hạn. Tuy A lại da thức là một cái kho chứa nhóm, nhưng nó biến chuyển vận hành liên tục không ngừng nghĩ, có lúc chuyển chủng tử mới vào và có khi đưa chủng tử ra gọi là biến hành. Vì sự biến chuyển này mà con người mới có thể tu thành Thánh nhân hay trở thành ác quỷ. Còn linh hồn là cố định, bất biến cho nên đạo Phật phủ nhận có một linh hồn sống giữ chết đem về. A-lại-da hàm chứa mọi nội dung của thức. Nội dung này luôn luôn biến đổi theo hoàn cảnh sống và theo hành động của chúng sang mang nó. Chính đấy là năng lượng, là sức mạnh gọi là nghiệp lực mà khi một người chết đi, nó đẩy A-lại-da hay Thức nương gá vào một thân thể mới vừa tượng hình có hoàn cảnh phù hợp với nó. Đó là ý nghĩa của “linh hồn đi đầu thai” mà Phật giáo gọi là Thức đi đầu thai. Thức được hiểu như là dòng chảy liên tục của các ý niệm. Các ý niệm này tuỳ thuộc nhiều yếu tố khác mà phát sinh, đức Phật gọi quá trình tuỳ thuộc phát sinh nầy là “duyên khởi” (paticasamupàda). “Thức” chỉ là một mắc xích trong 12 mắc xích duyên khởi mà thôi. Do đó, khái niệm “thức” của Phật giáo khác nhau với “linh hồn bất tử” của các tôn giáo khác rất lớn. Chính sự tiếp nối của các ý niệm tương tục nầy mà thức đi tái sanh, lên xuống trong 3 cõi 6 đường, chứ không phải là một linh hồn bất tử, vĩnh hằng như cách hiểu của các tôn giáo khác.
Dựa theo khoa học thì vật lý là sự vật chưa có cái biết, chưa có sự sống. Sinh lý là sự vật có sự sống mà chưa có cái biết. Còn tâm lý là có sự sống, có cái biết mà chưa có phân biệt đó là cảm giác tức là thọ uẩn. Thế thì vật lý là trần, sinh lý là căn và tâm lý là thức. Dựa theo Duy thức thì căn tiếp xúc với trần sinh ra thức tức là sinh lý tiếp xúc với vật lý thì tâm lý phát hiện. Và tâm lý đầu tiên là cảm giác tức là thọ uẩn. Tuy nhiên mỗi uẩn đều nương tựa vào các uẩn kia mà tồn tại. Thí dụ trong sắc uẩn có thọ uẩn và trong thọ uẩn có sắc uẩn rồi. Khi chúng ta có một cảm giác đau khổ, khó chịu thì cái cảm giác này gồm luôn cả thân thểvà tri giác, tâm tư và thức.
Tuy con người là sự kết hợp của ngũ uẩn, nhưng mỗi uẩn là vô thường vô ngã nên toàn khối cũng là vô thường vô ngã tức là Không chẳng khác nào như cây chuối không có lõi, chỉ là sự kết tập của các bẹ chuối. Khi thấu rõ bản chất thật của con người và vũ trụ mà chúng ta đang sống thì chúng ta sẽ không còn bám vúi vào cái thân giả hợp, sẽ không còn thấy nó là Ta hay là của Ta thì những phiền não khổ đau sẽ đoạn diệt.
Tuy Bát Nhã Tâm Kinh vỏn vẹn có 260 chữ, nhưng quan trọng nhất của Tâm Kinh vẫn nằm ở câu đầu: “Quán tự tại Bồ-tát hành thâm Bát-nhã Ba-la-mật-đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhứt thế khổách”. Đoạn kinh Bát Nhã này chú trọng đến vấn đề thoát khổ. Con người sẽ thoát khổ, theo Bát-nhã, khi thực hành trí tuệ Bát-nhã sâu xa, soi rọi rõ ngũ uẩn là Vô ngã tức là Không. Thấy biết ngũ uẩn là Vô ngã là thấy biết tất cả các pháp là Vô ngã nghĩa là khổlà Vô ngã và người cảm thọ khổ cũng là Vô ngã, bởi cả hai đều là duyên sinh. Như thế rõ ràng, không thực có khổ, cũng không thực có cái gọi là con người thọkhổ, thì hẳn là không còn có một thứ khổ ách nào ràng buộc cả. Quan trọng nhất là chúng sinh thấy rõ ngũ uẩn là Vô ngã thì không còn chấp thủ ngũ uẩn là mình, là của mình, hay là tự ngã của mình. Chấp thủ diệt thì ái diệt, khổ diệt. Đấy là đường vào giải thoát.
Vô Tận Ý bạch Phật:
-Thế Tôn ! Con xin cúng dường Bồ-tát Quán Thế Âm.
Nói xong, liền mở xâu chuỗi ngọcđang đeo nơi cổ, giá trị trăm ngàn lượng vàng, đem dâng cho Bồ-tát Quán Thế Âm mà nói rằng: Xin ngài nhận món pháp thí bằng châu báu nầy.
Bồ-tát Quán Thế Âm không chịu nhận.
Vô Tận Ý lại thưa:
-Xin Ngài thương xót chúng tôi mà nhận cho.
–Bấy giờ Phật bảo Bồ-tát Quán Thế Âm:
–Ông nên thương xót Vô Tận Ý và hàng tứ chúng cùng Trời, Rồng, Dạxoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-dà, loài người và không phải người… mà nhận chuỗi ngọc.
Tức thì Quán Thế âm thương hàng tứchúng và Trời, Rồng, Nhân và Phi Nhân…mà nhận chuỗi ngọc. Rồi ngài chia chuỗi ngọc làm hai phần: Một phần dâng đức Thích Ca Mâu Ni Phật, một phần dâng tháp của Phật Đa Bảo.
Đức Phật gọi Bồ Tát Quán Thế Âm bằng “Ông” trong câu “Ông nên thương xót…”. Tiếng “Ông” mà kinh diễn tả có nghĩa là đức Quán Thế Âm dựa theo kinh Pháp Hoa là người nam trong khi hình tượng đức Quán Thế Âm mà chúng ta thường thấy trước chùa hoặc trong chánh điện lại là người nữ. Vậy phải giải thích nhưthế nào?
Trong lịch sử tín ngưỡng ở Ấn Độ thì Bồ Tát tự nhiên phải thuộc nam tính như tất cả mọi thần thánh quan trọng khác cho nên không dễ dàng tìm ra bất cứdự kiện trong lịch sử để nêu lên vấn nạn rằng Bồ Tát Quán Thế Âm hay Đại ThếChí là nam giới hay nữ giới. Thật vậy, trong nghệ thuật và văn học Ấn Độ thì tất cả hình tượng về Bồ Tát đều được mô tả và diễn đạt trong tư thế và hình thái của nam giới. Kinh Hoa Nghiêm chép: “Dũng mãnh trượng phu Quán Tự Tại”.Quán Tự Tại chính là Quán Thế Âm. Kinh gọi Ngài là “bậc trượng phu dũng mãnh”,chứng minh Quán Âm vốn là nam tử.
Khuynh hướng đó có lẽ được cho là bị ảnh hưởng triết học thần thoại của ẤnĐộ giáo (Hindu), tôn giáo mà tất cả những thần thánh quan trọng nhất đều là nam giới. Thí dụ thần sáng tạo tức là đấng sáng tạo vũ trụ: thần Brahma (Thượngđế); thần hủy diệt kalki, truyền thuyết nói rằng khi Vishnu tức là đấng sáng tạo tối cao đến sẽ kéo theo sự hũy diệt sau cùng của thế giới này, để phán xét những điều xấu ác và tưởng thưởng những điều tốt; thần Vishnu là đấng sáng tạo tối cao hay là Chân lý cuối cùng mà đức Phật Thích Ca được Ấn Độ giáo gọi là thần Vishnu, đều là nam giới. Nhưng Phật giáo Mật tông Tây Tạng thì hình tướng Bồ Tát Quán Thế Âm là Tara Quán Âm màu xanh, chớ không phải Bạch Y Quán Thế Âm như ở Trung Hoa hay ở Việt Nam.
(Xin xem Green Tara Mantra: Thần chú lục độ mẫu):
(http://www.youtube.com/watch?v=PHg22_lMtNk&feature=related).
Đức Phật sinh ra trong xã hội Bà la môn (tiền thân của Hindu), nhưng Ngài không chấp nhận lý thuyết tiểu ngã, đại ngã, Thượng đế và thần thánh của Bà la môn giáo nên khai sáng ra đạo Phật với chân lý Vô Ngã, Duyên Khởi, tự giác, tự giải thoát và vô tín ngưỡng. Thế mà ẤnĐộ giáo ngày nay đặt đức Phật vào vị trí của một trong số thần thánh không thuộc thế giới con người trong danh sách thần thánh của đạo Hindu khiến cho người dân Ấn Độ đều cho rằng đức Phật Thích Ca là hiện thân thứ chín của thần Vishnu.
(http://www.sanatansociety.org/hindu_gods_and_goddesses.htm).
Như thế kinh điển Phật giáo Đại thừa diễn tả giới tính của tất cả Bồ Tátđều là người nam. Nhưng khi kinh điển Đại thừa từ Ấn Độ truyền sang Trung Quốc thì người Trung Hoa bắt đầu chuyển thân Bồ Tát Quán Thế Âm từ nam sang nữ.
Theo khảo cứu của họa giả Edkins thì người Trung Hoa thờ phượng đức Quán Thế Âm sớm nhất vào khoảng thế kỷ thứ nhất cho đến năm 220 sau công nguyên. Nhưng theo sự nghiên cứu của học giả Alice Getty thì việc thờ phụng đức Quán Thế Âm được truyền bá vào Trung Hoa vào cuối thế kỷ thứ nhất sau công nguyên và lúc đó gọi là Quán Âm. Có một lý luận cho rằng vua nhà Đường tên là Lý Thế Dân cho nên nhà vua cho đổi Quán Thế Âm thành ra Quán Âm vì chữ “Thế” là húy kỵ của nhà vua. Ở trong các hang động Long Môn (Lung men) và Vân Cương (Ying kang), các nhà khảo cổ tìm thấy hình tượng đức Phật Thích Ca và các vị Bồ Tát được tạc và điêu khắc trong hình tướng nam giới vào thời kỳ ban sơ tức là vào khoảng thếkỷ thứ tư và thứ năm sau công nguyên. Và tất cả những tranh tượng điêu khắc đóđều mang đặc tính nghệ thuật Trung Hoa. Ngay cả đến thế kỷ thứ mười, Quán ThếÂm còn được giữ dưới dạng nam giới trong các động ở Đôn Hoàng (vùng Tân Cương) và tượng Quán Thế Âm có để râu mép.
Tượng Quán Thế Âm nam giới có râu mép.
(Ở động Đôn Hoàng, Trung Hoa)
Tiến trình nữ hóa ngài Quán Thế Âm ở Trung Hoa trải qua nhiều giai đoạn và nhiều truyền thuyết:
1)Việc chuyển đổi giới tính của Bồ Tát Quán Thế Âm là do ảnh hưởng của Phật giáo Mật tông bắt đầu thịnh hành ở Trung Hoa vào khoảng thế kỷ thứ tám sau công nguyên. Các nghệ nhân triều đại nhà Đường đã uyển chuyển thay hình đổi sắc của Bồ Tát cho phù hợp với dáng người Trung Hoa và thêm vào đó, giáo lý Mật tông đã đóng góp một số đặc tính thần thoại đưa đến việc thần thánh hóa đức Quán Thế Âm trở thành một đối tượng tín ngưỡng tôn giáo ở Trung Hoa rồi sau đó truyền sang Nhật Bản, Đại Hàn và Việt Nam, đặc biệt là Quán Thế Âm Nghìn Tay Nghìn Mắt và (Thần) Chú Đại Bi. Với sự thần thánh đó, Phật giáo Đại thừa thật sự hấp dẫn quần chúng bản địa và người dân Trung Hoa hoàn toàn bị lôi cuốn bởi loại tín ngưỡng này.
Dược sư Long Thọ là vị Sơ Tổ Mật tông ở Ấn Độ bắt đầu từ thế kỷ thứ bảy sau công nguyên. Ông có người đệ tử là Long Trí. Lúc bấy giờ có ngài Kim Cương Trí (Vajrabodhi) (663-723) là người rất tinh thông về kinh luận. Năm 15 tuổi, ông qua Tây Ấn Độ học về Nhân Minh Luận với ngài Pháp Xứng, sau đó tham học Luật, Trung Quán Luận (Long Thọ) và Duy Thức Luận (Thế Thân) và sau cùng đến Nam ẤnĐộ tu học và nghiên cứu Kim Cang Đỉnh (Vajra-Sekhara) với ngài Long Trí gần 7 năm. Đến năm 720 ngài Kim Cương Trí qua Trung Hoa và đến Lạc Dương để truyền bá Mật giáo cùng với đệ tử là ngài Thiện Vô Úy. Vì thế ngài Kim Cương Trí là vị Tổ đầu tiên của Mật tông tại Trung Hoa. Trên phương diện giáo nghĩa và hành trì, họ chia Mật giáo thành ra hai phái: Chân ngôn thừa (Mantrayàna) và Kim Cang thừa (Vajrayàna) dựa theo hai bộ kinhĐại Nhật và Kim Cương Đỉnh.
Như thế, giáo lý Mật tông thịnh hành ở Trung Hoa vào khoảng thế kỷ thứ tám sau công nguyên và nó đóng vai trò quan trọng trong việc chuyển đổi giới tính của Bồ Tát Quán Thế Âm từ nam sang nữ. Nhưng Phật giáo Mật tông vay mượn quá nhiều quan điểm thần thoại của Ấn Độ giáo (Hindu) mà trong đó thần chú, bùa phép, thờ phượng, cầu khẩn thần thánh là những điển hình. Ngay cả học giảEdward Conze và Sir Charles Eliot cũng thốt lên rằng “Đây là nguyên nhân khiến cho Phật giáo trở nên quá khó hiểu, trừu tượng và cũng là nguyên nhân chính không chỉ đóng góp vào việc làm suy tàn Phật giáoở Ấn Độ, mà dòng nước suy thoái bắt nguồn từ những yếu tố trên đã làm cho Phật giáo biến mất tại những quốc gia như Mả Lai Á, Indonesia…”. Trong khi đó, lý tưởng giải thoát và hạnh nguyện của đức Phật với những lời dạy chân thật như “Chư ác mạc tác, chứng thiện phụng hành, tựtịnh kỳ ý” nghĩa là hãy làm các việc lành, tránh xa các việc dữ, giữtâm ý thanh tịnh, không làm thỏa mãn nhu cầu của tín đồ trong thời điểm đó vì có lẽ con người quá mệt mỏi với khả năng “tự lực” “tự độ” nên xoay sang cầu mong “tha lực” cứu độ. Phật giáo Đại thừa Trung Hoa hấp thụ các đặc tính của Mật giáo để thỏa mãn nhu cầu tín ngưỡng của quần chúng vì họ đã quá quen thuộc với tư tưởng tín ngưỡng của Lão và Khổng giáo, là những tôn giáo tin ngưỡng đa thần. Tuy nhiên, tín ngưỡng không hề có trong Phật giáo vì đạo Phật là đạo tự độ, tự giác.
Ngay cả tư tưởng “nhất nhân chứng, cữu huyền thăng” nghĩa là một người đắc đạo thì cả gia đình quyến thuộc chín đời được nhờ là hoàn toàn sai lạc, lầm lẫn vì nó đi ngược lại với luật“nhân quả”. Thí dụ điển hình là sau khi đức Phật thành đạo, vợ Ngài, con Ngài, dưỡng mẫu và biết bao anh em chú bác của Ngài cũng phải xuất gia, sống đời độc cư, tinh tấn nỗ lực tu hành và đi theo bước chân của Phật thì mới có giải thoát chớ đức Phật không cho họ sự giải thoát được. Câu chuyện bà Thanh Đề, mẫu thân của tôn giả Mục-kiền-liên bị đoạ xuốngđịa ngục được tôn giả Mục-kiền-liên và chư tăng cứu độ nhân ngày rằm tháng bảy. Có một sự thật không thể sai lầm được, đó là, nếu bà Thanh Đề bị đoạ xuống địa ngục thì do nghiệp ác bà ấy đã tạo, và tự thân nghiệp xấu ấy chiêu cảm mà khiến bà sanh vào cảnh giới tối tăm, đau khổ tương ứng với tâm thức tăm tối của bà, chứ không hề có một Thượng Đế nào đày bà xuống địa ngục. Thật vậy:
“Tội là chi, phước là chi
Đa mang chi hai gánh nặng như chì
Ai bắt tội và ai là người chịu tội?”.
Đây chính là điểm khác biệt nổi bật của Phật giáo với các tôn giáo hữu thần khác. Mình gieo nhân thì tự gặt quả lấy, hoàn toàn không có một tác nhân của Phật, Chúa Trời, Thần, Quỷ can dự vô nhân quả của mình được. Mình gieo nhân tốt, không cần sự cứu rỗi của ai cũng được sanh lên các cảnh giới chư Thiên. Nếu mình làm chuyện bất thiện thì sau khi chết, nghiệp bất thiện nầy tương ứng với cảnh giới của những người bất thiện, khiến tâm thức của người ấy sanh về cảnh giới chịu khổ sở để trả quả báo ácđộc, vì vậy không có một vị thần nào đày ta xuống cõi âm ti, địa ngục cả. Đạo Phật lấy nhân quả làm cơ sở vì thế bất cứ giáo lý nào ngoài nhân quả là không phải của đạo Phật.
2)Dựa theo học giả Yu Chun Fang thì quá trình chuyển đổi giới tính của BồTát Quán Thế Âm có lẽ xãy ra sớm nhất là vào thế kỷ thứ năm sau công nguyên. Trong bài báo được công bố năm 1997, Yu Chun Fang viết rằng “Vào khoảng thế kỷ thứ mười sau công nguyên, ngài Quán Thế Âm càng ngày càng chuyển đổi sang hình thái phụ nữ, rồi vào triềuđại nhà Minh, vị Bồ Tát này thực sự đã biến thành “Vị Nữ Thần Từ Mẫu”.
3)Trong bộ “Lịch Sử Triều Đại Bắc Triều” do học giả Li Baiyao viết rằng “Vào lúc đầu của nhà Đường, Hoàng đế Wu cheng (561-564AD) của triều đại Bắc Tùy (550-577AD) một đêm nằm mộng thấy đức Quán Thế Âm trong hình ảnh phụ nữ áo trắng tuyệt đẹp nên ra lịnh cho các nghệ nhân vẽ tranh và tạc tượng như lời ông kểlại. Từ đó đức Quán Thế Âm được miêu tả là nữ Bồ Tát”.
Qua những tranh tượng nghệ thuật còn lưu lại từ đời Đường (618-907) trở vềtrước thì Bồ Tát Quán Thế Âm đã được trình bày dưới dạng nam nhân. Tuy nhiên bắt đầu từ đời Tống (960-1279) tức là khoảng thế kỷ thứ 11, đức Quán Thế Âm đãđược nhìn thấy dưới dạng nữ nhân như là một vị nữ thần và hình ảnh về một Phật bà Quán Thế Âm đã được nghệ nhân Trung Hoa sáng tạo. Sự chuyển hóa thành dạng nữ nhân của Bồ Tát Quán Thế Âm được xem như hoàn tất dưới thời nhà Nguyên (1206-1368). Từ thời đại nhà Minh trở đi tức là khoảng thế kỷ thứ 15, Bồ Tát Quán Thế Âm hoàn toàn xuất hiện dưới dạng nữ nhân.
Cùng theo chiều hướng ảnh hưởng lan rộng đó, hình tượng đức Quán Thế Âm qua hình ảnh của Bạch Y Quán Thế Âm Bồ Tát và Quán Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn được truyền sang Việt Nam có lẽ sớm nhất là vào khoảng thế kỷ thứ 13. Khảo sát pho tượng Quan Âm tại chùa Động Ngọ, có ghi khắc rõ niên đại chính xác vàođời Diên Thành thứ năm (1582). Pho tượng tại chùa Thượng Trưng, niên đại được nói đến cũng được điêu khắc trong giai đoạn nầy, vào tháng tư năm 1592. Sau đó Việt Nam còn có nhiều hình ảnh Quán Thế Âm khác như Quán Âm Thị Kính, Quán Âm Diệu Thiện, Quán Âm Đồng Tử. Hiện nay, có pho tượng của Bồ Tát Quán Thế Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn được thực hiện vào thời nhà Mạc (thế kỷ thứ 16) vẫn còn lưu lại ở Viện Bảo Tàng Mỹ Thuật tại Hà Nội và pho tượng này đã được dùng làm tượng mẫu để điêu khắc những pho tượng lớn nhỏkhác.
Phật giáo trong thời vua A Dục từ năm 273 đến 232 trước công nguyên, là một trong những hoàng đế Ấn Độ kiệt xuất. Ông toàn thắng trong một loạt các cuộc chinh phạt và đã cai trị phần lớn vùng Nam Á, từ Afghanistan cho đến Bengal hiện nay và đi sâu đến miền Nam tận Mysore. Là một quân vương ủng hộPhật giáo, ông đã lập nhiều bia đá ghi lại những thánh tích trong cuộc đời Phật Thích-ca Mâu-ni. Và theo truyền thống Phật giáo, thời kỳ này được xem như là thời kỳ cực thịnh chẳng khác lúc đức Thế Tôn còn tại thế cho đến triều đại Mauyan. Nhưng con ma vô thường cũng không thương xót cho dù đó là đạo Phật. Xã hội Ấn Độ vào thời đức Phật là một xã hội phong kiến, đầy dẫy bất công. Chínhđức Phật đã cực lực công kích chế độ giai cấp, sự kỳ thị phụ nữ và đưa ra tư tưởng bình đẳng cho tất cả mọi người. Tuy tư tưởng đức Phật chống lại đạo Bà la môn, nhưng Phật giáo được các vua thời ấy ủng hộ cho nên Bà la môn không làm gìđược. Tuy nhiên, đức Phật lúc nào cũng là cái gai trong mắt của người Bà la môn vì thế khi Phật giáo suy yếu, người Bà la môn không ngần ngại tiêu diệt Phật giáo. Trước hết là sự suy thoái và sụp đổ của triều đại Mauyan kéo dài cho đến cuối thế kỷ thứ hai trước công nguyên đánh đấu cho sự suy tàn của Phật giáo trên xứ Ấn. Khi triều đại Sunga được thành lập với sự lên ngôi của vị vua Pusyamitra (187-151 trước dương lịch), Phật giáo đã trải qua nhiều cuộc khủng bố vô cùng dã man. Ông là kẻ thù dữ tợn nhất của Phật giáo. Vì muốn phục hưngđạo Hindu, là tiền thân của Bà la môn và là Ấn Độ giáo ngày nay, ông tàn phá tháp miếu, hỏa thiêu nhiều tu viện từ Madhyadesa cho đến Jalandhar ở vùng Punjab và không ngần ngại giết chết rất nhiều tu sĩ đức hạnh. Với sự trợ lực của các vị vua của triều đại Sunga, Ấn Độ giáo bắt đầu khởi xướng một chiến dịch phục hưng rầm rộ và sau cùng đạo Hindu dành được thế thượng phong và dĩnhiên tập quán thờ cúng đa thần được họ xiễn dương tối đa trở lại. Trên thực tế, khuynh hướng thờ cúng thần linh đã hấp dẫn và có sức mạnh lôi cuốn một sốlượng quần chúng khổng lồ trong đó có cả tín đồ Phật giáo. Để đối phó với vấnđề nan giải liên quan đến sự tồn vong của Phật giáo lúc bấy giờ, vô số hình tượng Bồ Tát khác nhau vốn được xem như là thần thánh được đưa vào trong Phật giáo. Thực tế là nhiều thánh thần của Ấn Độ giáo (Hindu) đã từng bước, từng bước thay thế hình ảnh của đức Phật giữa xã hội Ấn Độ. Kết quả, kinh điển Đại thừa ra đời cũng dựa theo lý tưởng Bồ Tát này. Ban đầu các vị triết gia lỗi lạc của Phật giáo thời ấy nghĩ rằng Bồ Tát chỉ là những biểu tượng cho từ bi, trí tuệ và những đức năng của đức Phật, nhưng thực tế đa số Phật giáo đồ sau đó chỉthích quỳ lạy, cầu xin thay vì nghiên cứu, hành trì cầu đạo Vô thượng Bồ-đề.Thậm chí họ biết đến Quán Thế Âm Bồ Tát còn nhiều hơn đức Phật không phải vì BồTát Quán Thế Âm dạy họ thực hành từ, bi, hỷ, xả mà vì Bồ Tát có ngàn tay ngàn mắt, có công nang nghe được tiếng cầu xin và dang tay ra cứu độ. Chưa hết họcòn lầm lẫn gọi Quán Thế Âm là Phật Bà. Nếu cầu Bồ tát Quán Thế Âm mà cái gì cũng được thì thế gian này làm gì còn nghèo khổ, bệnh tật, tai nạn, chiến tranh, giết chóc, thiên tai, động đất, bảo lụt, sóng thần…? Nếu chư Phật và chưBồ Tát ứng hiện để cứu giúp mỗi khi con người cầu khẩn thì còn đâu là lý nhân duyên, còn đâu là thuyết nhân quả, còn đâu là nghiệp báo hay nói chung còn đâu là giáo lý Phật Đà? Khi vua Lưu Ly hai lần đem quân muốn tiêu diệt dòng họThích Ca, đức Phật hai lần đích thân ngăn cản, nhưng sau cùng Ngài cũng để cho ân oán đâu đó tự trang trải. Chính Tôn giả Mục Kiền Liên dùng thần thông bay vào thành chọn ra 500 những người ưu tú của dòng họ Thích Ca bỏ vào bình bát rồi ôm bình bát nhảy lên hư không. Đến nơi an toàn, Tôn giả mở bình bát ra thì 500 người đó cũng đều bị đâm chết, máu chảy ra đầy bình bát.
Lịch sử của những vĩ nhân Trung Hoa thì lúc nào cũngđậm màu sắc huyền thoại. Thí dụ khi mẹ vua Hán Cao Tổ ngủ ngoài trời, nằm mộng thấy mình gặp một vị thần và vào lúc ấy bà thấy có một con rồng bao lấy thân mình, trong khi trời nổi gió, tuôn mưa rồi thọ thai sinh ra Hán Cao Tổ. Đức Khổng Tử có lai lịch rất huyền bí không kém. Cha mẹ của đức Khổng Tử vì không có con để nối dõi tôngđường, nên phụ mẫu của ngài lên núi Ni Khưu để cầu tự. Sau đó thân mẫu của ngài nằm mộng thấy một con kỳ lân đến trước mặt bà, nhìn bà rồi quỳ xuống nhả ra một cây thước bằng ngọc trên có đề mấy chữ: “Thủy tinh chi tử, kế suy Châu vi tốvương” có nghĩa là con của vì sao Thủy tinh, đến nối truyền cho nhà Châu đã suy vong mà làm vua không ngôi. Khi ngài mới sinh ra thì có rồng bay đến bao quanh nhà. Nhưng có lẽ huyền thoại của đức Lão Tử là đặc biệt hơn cả. Mẹ của Lão Tử là một trinh nữ, một hôm bàđứng dưới gốc cây “lý” thấy trên cây có một trái lý chín rất tươi đẹp và thơm ngon nên bà bèn với tay hái trái lý mà ăn. Từ đó bỗng nhiên bà có thai. Một hôm khác bà ra đứng dưới cây lý hóng mát, bỗng nghe ở hông bên trái ngứa ngáy, da thịt rách ra một đường dài và Lão Tử theo đường nứt đó mà chào đời. Lúc ấy trên trời hiện ra 9 con rồng phun nước xuống tắm gội cho ngài. Vì ở trong thai 81 năm nên khi ra đời thì tóc, râu đã bạc trắng nên ngài mới có danh hiệu là Lão Tử. Có lẽ đây là người đầu tiên và độc nhất của nhân loại sinh con lúc bà gần trăm tuổi. Thật là ngẫu nhiên câu chuyện này sao lại giống như chuyện đức Phậtđản sanh từ hông của hoàng hậu Ma-da và có rồng phun nước? Ngày nay những thếhệ sinh ra và lớn lên trong những quốc gia khoa học tân tiến thì hiện tượng rađời bên hông phải của đức Phật rất khó có thể giải thích một cách hợp lý được. Sự kiện huyền bí này là theo truyền thuyết Phật giáo Trung Hoa được lưu truyền qua các kinh như: Phương Quảng Đại Trang Nghiêm, Phật Bản Hạnh Tập, Trường A Hàm…Thiền tông Trung Hoa giải thích sự kiện sinh bên hông phải là biểu trương của Phật tánh, chớ không phải là kết tinh do cha mẹ sinh ra. Đó chính là bản tâm vô trụ siêu việt vượt ra ngoài phạm trù đối đãi nhị nguyên thiện ác, đúng sai. Tuy nhiên, kinh điển Nguyên thủy Pali không thấy nói đến việc Thái tử sinh ra từ hông phải của Hoàng hậu Ma-da. Trong Trường Bộ Kinh Tập 1, Kinh Đại Bổn 14 có câu:”Này các Tỳ kheo! Pháp nhĩ là như vậy. Khi vị Bồ-tát từ bụng mẹsanh ra, chư thiên đỡ lấy Ngài trước, sau mới đến loài người. Pháp nhĩ là như vậy”. Như thế theo kinh tạng Nguyên thủy, sự đản sanh của đức Phật là một con người bình thường, Hoàng hậu Ma-da cũng hoài thai như muôn ngàn thiếu phụ khác. Đến ngày khai hoa nở nhụy, Thái tử Tất Đạt Đa cũng chào đời qua lòng mẹ như mọi đứa trẻ khác trên thế gian này. Dựa vào những dự kiện đó, chúng ta có thể nhìn việc đản sinh của đức Phật bằng hai góc độ khác nhau:
1)Nếu đức Phật là ứng thân của chư Phật thì phàm nhân và Phật phải có sự ngăn cách. Đó là những gì Phật làm, Phật chứng thì chỉ có Phật mới thực hiện được vì Ngài là một siêu nhân. Còn phàm nhân cho dù có nỗlực cách mấy cũng khó lòng đạt được, nếu không muốn nói là không thể được. Mà nếu tự mình không làm được thì dĩ nhiên cầu xin, Phật sẽ ban cho thế thôi.
2)Nhưng bây giờ nếu nhìn đức Phật sinh ra và lớn lên giống như những đứa trẻ khác trên đời. Ngài thấu biết và cảm nhận tất cả những nỗi khổ trong thế gian cũng như chúng ta và sau cùng Ngài chấp nhận viễn ly tất cả, bỏ lại cung vàng điện ngọc, bỏ lại vợ đẹp con xinh, bỏ lại tất cả để tinh tấn tu tập thiền định và kết quả Ngài chứng được Niết bàn, có giải thoát giác ngộ tự tại. Do đó nếu bất cứ ai có đủ nghị lực, chấp nhận viễn ly, tinh tấn tu hành như Phật thì cũng sẽ có kết quả như Phật.
Niềm tin là một trong những yếu tố cốt lõi nhất đối với đời sống con người. Nhờ dựa vào niềm tin đó mà cuộc sống của con người trở nên tiêu cực, hay tích cực, năng động hay thụ động và quan trong hơn hết là thất bại hay thành công. Do thiếu niềm tin hoặc do vì niềm tin sai lạc con người có thể đánh mất định hướng của cuộc sống như nó đang xảy ra.
Trong lãnh vực tôn giáo, niềm tin lại càng quan trọng hơn và họ cho rằng giáo chủ của tôn giáo họ là đấng siêu nhiên, là đấng sáng tạo và dĩ nhiên học thuyết của họ là tuyệt đối chính xác, là cứu cánh của cuộc đời. Thậm chí tín đồchỉ được phép tin và thực hành học thuyết đó mà không được nghi ngờ, thắc mắc. Phật giáo thì ngược lại, chính đức Phật đã dạy rằng:” “Không được tin bất cứ gì Ta nói là đúng, chỉvì đấy là do Ta nói. Trái lại phải mang ra thử nghiệm những lời giáo huấn của Ta giống như một người thợ kim hoàn thử vàng. Nếu sau khi quán xét các lời dạy của Ta mà nghiệm thấy là đúng, thì lúc ấy mới nên mang ra thực hành. Dầu sao thì nhất định cũng không phải là vì kính trọng ta mà mang ra thực hành”.Vì vậy niềm tin của đạo Phật được xây dựng dựa trên nền tảng của trí tuệ, tu tập và thực nghiệm. Từ đó con người mới có thể giải thoát khỏi nghiệp lực và khổ đau để đạt đến hạnh phúc chân thật Niết bàn. Đây mới chính là Chánh tín. Ở đây, Quán Thế Âm là danh hiệu để nhân cách hóa một phương pháp tu tập. Đó là lối tu “phản văn văn tự tánh”nghĩa là xoay về để lắng nghe tánh nghe thanh tịnh của lòng mình thay vì chạy theo những âm thanh thị phi, phải quấy, tốt xấu, hơn thua. Quán là vận dụng cái trí năng tri soi rọi vào tâm để nhận thức đối tượng. Thế có nghĩa là sự vận dụng tương tục của tâm tưởng chúng ta. Âm là âm ba, âm hưởng, âm thanh đều là những đối tượng của nhĩ căn. Do đó Quán Thế Âm là quán niệm cái tiếng tâm thầm lặng mà trong suốt như pha lê và nó thường xuyên liên tục không có giây phút nào gián đoạn ở lòng ta tức là “tánh nghe”.
Khi Bồ Tát Vô Tận Ý đã tiếp thuđược giáo lý thậm thâm, những lời dạy về phương cách tu hành sâu kín nên phát tâm cúng dường chuỗi ngọc. Phát tâm cúng dường có nghĩa là tâm đắc và tiếp thu được những lời dạy quý báu và phương cách tu hành rốt ráo đó. Bồ Tát Quán Thế Âm sau khi nhận chuỗi ngọc liền chia làm hai, một đem cúng dường Phật Thích Ca và một cúng dường Phật Đa Bảo. Thếthì khi muốn thấy Phật Đa Bảo, tức là Pháp Thân Thường Trụ, Bản Thể thanh tịnh của chính hành giả, thì hành giả phải thu nhiếp tất cả các căn lại, những vọng tưởng điên đảo phải lôi nó lại, không để cho nó lăng xăng nữa, thì chỗ ấy thấy rất rõ chơn tướng của Pháp Thân Thường Trụ, thì gọi là Phật Đa Bảo Như Lai. Tại sao gọi là Đa Bảo? Tại vì nó quí giá vô cùng, không có cái gì quí giá hơn. Đa là vô cùng, nhiều lắm, Bảo là quí giá. Đa Bảo là vô cùng quí giá. Chuỗi ngọc ở đây không phải là ngọc ngà châu báu của người thế tục vì Bồ Tát và chư Phật đâu có cần những thứ hữu vi giả tạm này, mà nó chính là phương pháp để phá thức uẩn, là cội nguồn phát sinh ra vọng tưởng điên đão, là pháp vô úy thí để giúp chúng sinh hết lo sợ, buồn phiền và đặc biệt là “nhất tâm” niệm danh hiệu BồTát Quán Thế Âm để trở về sống với tỉnh thức chánh niệm, làm chủ lấy thân, tâm và sống với tri kiến Phật thanh tịnh của chính mình. Khi Bồ Tát Quán Thế Âm cúng dường chuỗi ngọc cho Phật Thích Ca tức là Hóa thân Phật và Phật Đa Bảo là Pháp thân Phật có nghĩa là tất cả phương cách tu học, thực hành dầu có huyền diệu đến đâu cũng đều trở về với bổn tánh của nó. Nói cách khác chúng ta áp dụng bao nhiêu phương pháp huyền diệu để tu thành Phật như Phật Thích Ca, nhưng sự thành Phật này chẳng qua là sự trở vềvới Pháp thân Phật một khi vô minh phiền não không còn, nghĩa là đức Phật xuất hiện trên thế gian này là khai mở, chỉ bày khiến cho chúng sinh mở toang tri kiến Phật của họ và giúp cho chúng sinh thanh tịnh hóa tri kiến Phật đó. Thếthì cái tri kiến Phật mà kinh nói ở đây chính là trí tuệ tức là cái biết nhưthật về tánh Vô Ngã và lý Duyên Khởi của các pháp. Mà cái thực tại Vô Ngã (No-self) chỉ có thể thành tựu qua công phu thiền định và lúc đó lòng chấp thủvề chủ thể lẫn đối tượng sẽ không còn hiện hữu. Con người có trở về với bổn tánh, chơn tâm hay Phật tánh chỉ khi nào họ đạt được cái trí tuệ này thì lúc đó họ sẽ an trú trong sự thấy biết tánh bình đẳng của tất cả mọi sự vật hiện tượng và tất cả khái niệm hay ý niệm về những cặp phạm trù đối đãi phân biệt sẽ biến mất. Vì lẽ đó mà kinh Pháp Hoa được biết đến như là kinh Trí Tuệ vậy.
–Vô Tận Ý Bồ-tát nói một bài kệ, đểhỏi đức Phật:
“ Thế Tôn đủ tướng tốt
Con nay xin hỏi Phật
Phật tử kia duyên gì
Tên là Quán Thế Âm”
Kệ đáp:
Vô Tận Ý nghe đây
Hãy nghe hạnh Quán Âm
Khéo ứng các nơi chỗ
Thệ rộng sâu như biển
Nhiều kiếp chẳng nghĩ bàn
Hầu nhiều nghìn ức Phật
Phát nguyện thanh tịnh lớn.
Ta vì ông lược nói:
Nghe danh và thấy thân
Tâm niệm không xao lãng
Hay diệt khổ ba cõi
Giả sử khởi ý hại
Xô rớt hầm lửa lớn
Do sức Quán Âm kia
Hầm lửa biến thành ao.
Hoặc trôi dạt biển lớn
Cá, rồng, quỷ các nạn
Do sức Quán Âm kia
Sóng mòi dập chẳng chìm.
Hoặc ở chót Tu-di
Bị người xô rớt xuống
Do sức Quán Âm kia
Như mặt trời trụ không.
Hoặc bị người ác rượt
Rớt xuống núi kim cang
Do sức Quán Âm kia
Chẳng hại đến mảy lông.
Hoặc bị oán tặc vây
Đều cầm dao gia hại
Do sức Quán Âm kia
Đều liền sanh lòng lành.
Hoặc bị khổ nạn vua
Gia hình mệnh sắp chết
Do sức Quán Âm kia
Dao liền gẫy từng đoạn.
Hoặc xiềng xích cầm tù
Tay chân bị cùm gông
Do sức Quán Âm kia
Tháo ra được thong thả.
Trù ếm tra thuốc độc
Muốn hại chết người ta
Do sức Quán Âm kia
Người làm mang hại lấy.
Hoặc gặp La-sát dữ
Độc-long các quỷ yêu
Do sức Quán Âm kia
Chúng liền không dám hại.
Hoặc thú dữ vây quanh
Nanh vút bén đáng sợ
Do sức Quán Âm kia
Chạy gấp chẳng kể đường
Rắn độc và bò cạp
Phun khí độc mịt mờ
Do sức Quán Âm kia
Tự khắc lui chạy hết.
Mây đen sấm sét nổ
Giá tuôn mưa xối xả
Do sức Quán Âm kia
Tức thời tiêu tan hết.
Chúng sanh bị khổ ách
Vô lượng khổ bức thân
Quán Âm sức trí diệu
Hay cứu khổ thế gian
Đầy đủ sức thần thông
Rộng tu trí phương tiện
Mười phương các cõi nước
Không cõi nào chẳng hiện
Các loài trong đường dữ
Địa ngục, quỷ, súc sanh
Sanh, lão, bệnh, tử, khổ
Lần lần khiến dứt hết.
Quán chơn, quán thanh tịnh
Quán trí tuệ quảng đại
Quán bi và quán từ
Thường nguyện thường chiêm ngưỡng
Quán thanh tịnh không nhơ
Trời trí tuệ phá tối
Hay phục tai gió lửa
Chiếu sáng khắp thế gian.
Thể Bi ngừa sấm sét
Ý từ đám mây lành
Xối mua pháp cam lồ
Dứt trừ lửa phiền não.
Kiện tụng ở chỗ quan
Trong quân trận sợ sệt
Do sức Quán Âm kia
Oán cừu đều tan hết.
Diệu Âm: Quán Thế Âm
Phạm âm, hải triều âm
Tiếng hơn hết thế gian
Cho nên thường phải niệm.
Niệm niệm chớ sanh nghi
Quán Thế Âm Thánh Tịnh
Với khổ não chết chóc
Làm chỗ nương cậy cho.
Đủ tất cả công đức
Mắt lành trông chúng sanh
Biển phước lớn vô lượng
Thế nên cần đảnh lễ.
Bấy giờ, Bồ-tát Trì Địa liền từ chỗngồi đứng dậy đến trước Phật thưa rằng:
–Bạch Thế Tôn ! Nếu có chúng sanh nào nghe phẩm Quán Thế Âm Bồ-tát Phổ Môn với sức thần thông, đạo nghiệp tự tại nầy thì nên biết công đức của người đó không phải tầm thường
Lúc Phật nói phẩm Phổ Môn nầy, trong chúng có 84.000 chúng sanh đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
TrìĐịa Bồ Tát là vị Bồ Tát giữ gìn trái đất, là thế giới Ta Bà tức là cõi đất tâm của chúng sinh. Kinh giới thiệu Bồ Tát Trì Địa để nhắn nhủ với chúng sinh rằng cõi tâm của con người luôn thay đổi. Nếu chúng ta còn chạy theo tham đắm dục tình, làm nô lệ cho vô minh phiền não thì cõi đất tâm ấy lúc nào cũng phiền não, đau buồn tức là chúng ta đang sống trong thế giới Ta Bà. Ngược lại bây giờchúng ta nghe theo pháp tu “Phản văn văn tự tánh” của ngài Quán Thế Âm nghĩa là không nghe những âm thanh bên ngoài nữa mà xoay về nghe tánh nghe của mình thì những biến động của tâm sẽ tan biến, thế giới Ta Bà biến mất và chúng ta sẽsống trong cõi đất tâm vô cùng thanh thản tự tại tức là cõi cực lạc vậy. Nếu chúng sinh dùng lỗ tai (thịt) để nghe thì chắc chắn sẽ bị ngăn ngại. Tại sao? Bởi vì khi tai nghe những âm thanh, tiếng nói không hài lòng khiến tâm bực bội, khó chịu. Ngược lại nghe những lời bùi tai thì say đắm. Thí dụ như vợ chồng, con cái bất ổn, thường hay cải vã, lời qua tiếng lại cũng vì tư tưởng khác đồng chuyển qua lời nói làm cho người nghe chịu không nổi, đâm ra bực tức, rồi sinh ra chửi bới, đánh đấm…cuối cùng dẫn nhau ra tòa ly dị…hoặc vào tù ra khám. Đó cũng tại vì chấp lời nói kia là thật nên bị ngăn ngại. Bây giờ nếu hiểu Phật pháp thì không chấp vào lời nói thị phi của người khác. Tại sao? Bởi vì trên thếgian này chỉ có ta mới thật sự hiểu rõ ta mà thôi, không một người nào khác có thể biết ta bằng ta được. Thí dụ một người chê ta là người xấu hoặc khen ta là người tốt thì họ chỉ dựa theo kiến giải và kinh nghiệm bản thân của họ mà so sánh,đánh giá người khác chớ làm sao họ biết ta bằng chính ta. Mình tốt bao nhiêu mình biết, mình xấu bao nhiêu thì cũng chính mình biết. Vì thế nếu mình là người xấu mà có người khen tặng mình mà mình nhận chẳng khác nào chính mình tự lừa dồi mình, sống trong ảo tưởng. Ngược lại nếu mình là người tốt, luôn nghĩ thiện, nói lời lành và làm việc thiện mà có ai chê ta thế này thế kia thì ta cứ mặc họ vì cuộc sống nhẹ nhàng, thánh thoát, an vui, tự tại thì chính ta đã có rồi đâu cần người đời trao tặng nữa. Nên nhớ những tiếng thị phi, những lời khen chê thì ở đâu và bất cứ lúc nào cũng có chẳng khác nào thời tiết nóng lạnh bất thường. Do đó người biết tự chủ tâm mình là người không chạy theo âm thanh khách trần phiền não cho nên nghe thì nghe tất cả mà như không nghe gì hết, không chấp vào âm thanh lời nói đó, trong ngoài tự tại là có an lạc Niết Bàn.
Tóm lại, khi chúng sinh nghe phẩm Phổ Môn này mà chính mình nhận thức rằng mỗi người đều có Diệu Âm, Quán Thế Âm trong họ thì đó chính là sức thần thông, đạo nghiệp tự tại bất khả tư nghì. Nói các khác không có vị Quán Thế Âm nào ở ngoài tâm của chúng sinh cho nên không có việc cầu tha lực gia bì vì toàn bộ giáo lý Phật Đà đều nằm trong vòng nhân quả nên không có Bồ Tát hay Phật nào can dự vào chuyện ân oán nhân quả của chúng sinh. Trì Địa Bồ Tát ở đây chỉ là biểu tượng hóa tâm thức của tất cả chúng sinh bởi vì bất cứ khi nào tâm thức của chúng sinh thoát khỏi sự chấp thủ, bám vúi và thực sự phát triển từ bi và trí tuệ thì chính họ đang thọ hưởng những phút giây an lạc trong từng hơi thở của họ và biến cuộc đời thành an vui tự tại.
Phật pháp thì rộng lớn cao thâm tuy nhiên Phật giáo cũng có một cánh cửa phổ thông (Phổ Môn) cho những ai muốn phát triển tiềm năng của mình để trởthành một vị Phật và cánh cửa phổ thông này đưa đến kết quả viên mãn được biểu tượng hóa bằng Bồ Tát Quán Thế Âm tức là sự nhân cách hóa đức tính từ bi và trí tuệ của đức Phật. Trong Phật giáo, từ bi và trí tuệ được xem là hai thành tốcủa một nhân cách giác ngộ. Trí tuệ sinh khởi nhờ từ bi và từ bi bắt nguồn từtrí tuệ, tuy hai nhưng mà một bất tức bất ly.
Khi đã thâm hiểu hạnh nguyện của Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát thì chúng sinh từnay chỉ đảnh lễ trước tôn tượng của Ngài với tấm lòng kính ngưỡng chớ không còn cầu nguyện, van xin cái gì cả bởi vì đạo Phật không phải là đạo tín ngưỡng mà là đạo thực hành vì có thực hành rốt ráo mới có thực chứng để đạt đến những thành quả nhiệm mầu và biến cuộc sống đang phiền não khổ đau trở thành thanh tịnh an lạc Niết bàn. Vì sao đạo Phật chỉ dạy chúng sinh tin sâu vào nhân quảmà không dạy cầu nguyện? Bởi vì cầu nguyện chỉ có thể giúp con người có được sựan bình trong nhất thời, trong giây phút chớ không thể giúp chúng sinh thật sựgiảm bớt hay vĩnh viễn thoáy ly được tất cả những hệ lụy của phiền não khổ đau mà họ đeo mang từ vô thỉ đến nay.
Thật ra luật nhân quả rất công bằng, hợp lý, không lệ thuộc vào không gian thời gian, không chỉ áp dụng cho riêng một ai, một sắc dân nào hay cho riêng tín đồ của bất cứ một tôn giáo nào cả. Ngày nay trong tiến trình khám phá của khoa học, luật nhân quả được xem như là tiền đề để giải quyết những khó khăn, những khám phá mới. Những tôn giáo ngoài Phật giáo cũng nhìn nhận ảnh hưởng trung thực của luật nhân quả trong đời sống của họ. Vậy có thể nói không riêng gì Phật giáo, luật nhân quả là một quy luật chung cho toàn thế gian vũtrụ.
Vì vậy không có việc cầu nguyện để được tai qua nạn khỏi vì không có Phật trời nào làm chuyện bất công bình để giúp đở những người cầu nguyện hay trừng phạt những ai không cầu nguyện mà thật ra con người có thoát khỏi tai họa là do những phước báu mà họ đã tạo tác từ trước. Do đó, thay vì cầu nguyện, con người nên nỗlực tạo dựng vun bồi thêm phước đức. Nếu chúng sinh luôn nghĩ thiện, nói lời thiện và làm việc thiện thì chắc chắn cuộc sống sẽ vô cùng an vui tự tại mà không cần phải nguyện cầu chi hết.
Trọng tâm cứu khổ của Ngài Quán Thế Âm nhằm giải thoát sự khổ tâm, khổtinh thần. Một khi con người đã giải thoát khổ tinh thần thì thân thể sẽ lành mạnh. Có sức khỏe thì tất cả mọi giá trị vật chất sẽ có ở tầm tay. Tâm kinh dạy rằng vật chất không ngoài tinh thần và dĩ nhiên tinh thần không ngoài vật chất bởi vì tinh thần vật chất tác động hữu cơ, bất tức bất ly. Vì thế, tất cả sựcứu độ của Ngài Quán Thế Âm phải được hiểu là ban cho tinh thần, cho những gì thuộc về lãnh vực giải thoát giác ngộ của tâm tư và ý thức. Ngài Quán Thế Âm không bao giờ ban cho chúng sinh vật chất hữu vi vì như vậy chẳng khác nào đẩy chúng sinh vào con đường khổ ải triền miên không lối thoát. Con người hãy thức tỉnh mà tìm thấy cho mình con đường sáng diệu dụng nhiệm mầu để tự mình giải thoát ra khỏi mọi gông cùm của phiền não khổ đau. Nếu cầu đức Quán Thế Âm mà cái gì cũng được độ thì thử nghĩ thế gian này làm gì còn nghèo khổ, bệnh tật, tai nạn, thiên tai, động đất, sóng thần, bảo lụt, chiến tranh, giết chóc…? Lời Phật dạy không sai, chỉ vì chúng sinh hiểu chưa thấu nên áp dụng sai lầm. Bởi vì nếu hiểu theo “Sự Tướng” thì làm sao thành tựu được, chẳng những không được mà còn rơi vào mê tín dị đoan trái với luật nhân quả khách quan của nhà Phật. Nhưng thành tựu ở đây là Phật nói về “Lý Tánh”. Lối tu của Ngài Quán Thế Âm là“phản văn văn tự tánh” nghĩa là xoay lại tánh nghe của mình. Mà tánh nghe là cái thể chân thật của mỗi người, không có hình dáng, tướng mạo. Nếu đã không có hình dáng tướng mạo thì lửa làm sao đốt hay nước nào nhận chìm được. Vì vậy niệm Quán Thế Âm tức là lắng nghe tánh nghe của chính mình mà quay về sống với chơn tâm thường trú và thể tánh tịnh minh thì mọi chướng nạn của lửa, nước đều qua khỏi.
Phải biết rằng tham dục trần thế là vô hạn, nhưng con người lại không có khả năng nhận ra chúng cho nên khi tham dục không được thỏa mãn thì sẽ gây khổ đau cho mình và cho người. Cái đà thỏa mãn tham dục cũng ví như chiếc xe đang chạy xuống dốc, càng xuống dốc thì xe càng chạy nhanh. Khi chưa thỏa mãn những dục tính thì con người luôn có khuynh hướng tiếp tục theo đuổi chúng cho đến khiđược thỏa mãn nghĩa là càng đeo đuổi thì tham dục càng tăng và càng gây thêmđau khổ. Chúng sinh chỉ có thể nghiệm được chân hạnh phúc và an nhiên tự tại khi có ít tham dục. Đây chính là một trong những bước lớn hướng về giải thoát giác ngộ.
Được như vậy là thực hành rốt ráo câu :
“Đa dục vi khổ
Sanh tử bì lao
Tùng tham dục khởi
Thiểu dục vô vi
Thân tâm tự tại…”
Đức Phật dạy rằng : ”Tham dục chính là nguồn gốc của khổ đau. Mọi vật rồi sẽ thay đổi vì thế không nên luyến ái hay vướng víu vào một thứ gì. Nên nhiếp tâm thanh tịnh tìm chân lý và đạt đến hạnh phúc vĩnh hằng”. Con người biết tri túc thiểu dục là biết diệt trừ tham dục nghĩa là họ biết thỏa mãn với những điều kiện vật chất khả dĩ giúp họ có đầy đủ sức khỏe để sống và để tu đạo. Đây chính là phương cách hữu hiệu nhất để cắt đứt lưới tham dục làm cho thân tâm được thanh thoát nhẹ nhàng và dĩ nhiên có nhiều cơ hội để giúp đở tha nhân.