Vu Lan 2

Recent Pages:  1  2  3  4  5  6 6a 6b

Cha Mẹ là nguồn mạch yêu thương

Thích Thông Huệ

Tại sao nói cha mẹ là nguồn mạch của yêu thương? Có thể nói, bốn sự yêu thương tạo nên tình thương thực sự để chúng ta bước vào cuộc đời, sự cảm nhận trước tiên của chúng ta là cha và mẹ. Nhất là khi mới chào đời, chúng ta nằm trong vòng tay êm ấm của mẹ, nhận được sự chắt chiu nuôi nấng của mẹ.

Trong nền văn hóa dân tộc Việt Nam, đạo hiếu làm con là di sản văn hóa tinh thần vô giá, di sản này truyền thừa từ thời mới lập quốc, đến khi Phật giáo du nhập vào Việt Nam, thì đạo đức dân tộc hòa chung với đạo đức Phật giáo như nước và sữa. Bản chất của người Việt Nam là yêu chuộng hiếu đạo, mà giáo lý của Phật giáo là giải thoát, vì vậy hai luồng tư tưởng gặp nhau đã làm thăng hoa giá trị văn hóa tinh thần của người dân Việt. Làm người ai cũng có cha và mẹ, hai đấng sinh thành dưỡng dục ta nên người, cho ta thân thể hình hài này, cho ta đạo đức làm người, cho ta biết yêu thương và chia sẻ.

Tại sao nói cha mẹ là nguồn mạch của yêu thương? Có thể nói, bốn sự yêu thương tạo nên tình thương thực sự để chúng ta bước vào cuộc đời, sự cảm nhận trước tiên của chúng ta là cha và mẹ. Nhất là khi mới chào đời, chúng ta nằm trong vòng tay êm ấm của mẹ, nhận được sự chắt chiu nuôi nấng của mẹ.

Cha thương con thì không như mẹ, hai thái cực khác nhau nhưng có chung một tình thương vô bờ. Cha thương con thường chúng ta ít nhận ra. Tình thương của người cha  nghiêm nghị và khô khan, đó là bản chất nam tính của người đàn ông, không mềm mại, không nhu mì nên chúng ta ít cảm nhận như tình thương của người mẹ. Vì không cảm nhận được mà đôi khi chúng ta cho là không có tình cảm, nhưng kỳ thật tình thương của người cha cũng không thua kém gì tình thương của mẹ.

Tình yêu thương của người mẹ hun đúc chúng ta khi mới chào đời. Rõ nét, đậm tình, nên chúng ta thấy tình cảm của người mẹ ngọt ngào, nhẹ nhàng, êm ái, giống như ánh trăng rằm. Còn tình thương  của cha gay gắt giống như ánh sáng mặt trời. Cổ nhân nói “Cha như mặt trời, mẹ như mặt trăng” là vậy.

Chúng ta hãy quán sát xem trên thế gian này chỉ có mặt trăng mà không có mặt trời thì chúng ta sống có được không? Còn nếu như chỉ có mặt trời thôi, mà không có mặt trăng thì sống được, nhưng hình như nó mất đi cái thi vị hóa của cuộc sống. Bởi trăng về đêm, nhất là trăng hạ huyền làm cho cuộc sống này như bồng lai tiên cảnh. Và, đêm có trăng thật dịu hiền, mát mẽ, ngồi ở sân nhà trong đêm trăng có gió mát, chúng ta sẽ cảm nhận hết cái nhẹ nhàng, thanh thoát, đầm ấm của đêm trăng như thế nào, thì tình mẹ cũng như thế đó.

Nhưng ở đây, phải nói là chúng ta nhận tình yêu thương của cha mẹ đầu tiên, rồi chúng ta phải đáp lại tình yêu thương đó đối với cha mẹ cũng phải rất chân thành. Có như vậy chúng ta mới nói được tiếng nói yêu thương, để chúng ta trang trải lòng từ bi vào cuộc sống này đối với tất cả mọi người có tương quan, tương sinh với mình.

Trước tiên chúng ta phải nghĩ, phải thương, phải đền đáp ơn sinh thành của cha mẹ, sự chân thành đó chớm nở làm nền tảng căn bản để chúng ta phát huy đạo đức vào trong lòng xã hội nhân sinh. Như vậy, tình yêu thương của chúng ta mới có nền tảng căn bản thực sự. Làm con mà không thương cha mẹ, lại thương người khác, thì tình thương đó chắc là không có thực tâm. Cha mẹ không thương mà lại đi thương người ngoài, thương đủ thứ người thì tình thương đó trở nên lãng đãng, mông lung rồi. Tình thương đó bị ô nhiễm, có tính toán và mưu đồ, và nghe có vẻ  lợi dụng quá!

Vì vậy, muốn thực tập yêu thương thì chúng ta phải tập yêu thương cha mẹ trước, mà phải thương một cách thật tâm, thương một cách chân tình, không thể thương trên lý thuyết, hay chỉ nói thương trên miệng lưỡi, mà chúng ta phải thương bằng sự báo đáp ân tình, ân nghĩa  thực sự ngay trong cuộc sống này. Hiếu không được chỉ hiểu trên mặt tri thức mà phải thể hiện ra bằng cái hạnh, cho nên mới gọi là hiếu hạnh. Hạnh hiếu có rồi thì chúng ta mới thể hiện sự hiếu dưỡng, tức là nuôi cha mẹ, lo cho cha mẹ từ vật chất đến tinh thần. Có như vậy, vào ngày này chúng ta mới có thể trở về nguồn mạch yêu thương đầu đời.

Khi chúng ta còn non trẻ, còn ấu thơ, tâm hồn của chúng ta trong trắng lắm, cha mẹ đã tập cho chúng ta từng tiếng nói đầu đời, cha mẹ hun đúc cho chúng ta bước vào đời một cách tự tin, vững chãi. Không những lo cho chúng ta việc ăn ở mà còn lo cho chúng ta về đạo đức. Không những lo cho chúng về đạo đức mà còn lo cho chúng ta có kiến thức để bước vào đời và trở thành một người sống có ích cho xã hội.

Vì vậy, ngày Rằm tháng Bảy Vu lan nghiễm nhiên trở thành lễ hội truyền thống của dân tộc ta và đã đi sâu vào mạch sống của người dân Việt từ xưa đến nay. Có thể nói, Lễ hội Vu lan mang đậm tính nhân văn sâu sắc, và ngày này được người ta gọi là ngày trở về nguồn. “Cây có cội, nước có nguồn”, cây có gốc bám sâu vào lòng đất thì cây đó mới phát triển to lớn được và ngọn ngành được vững vàng là do từ nơi gốc rễ. Còn nước, khi thấy nó chảy xuống suối, xuống sông, ra biển, thì mình phải biết rằng nó có nguồn mạch của nó, nó xuất phát từ nơi đầu nguồn. Vậy cội và nguồn chính là gốc rễ yêu thương của cha mẹ, chúng ta phải biết yêu thương cha mẹ trước khi chúng ta nói yêu thương người khác, đó là căn bản làm người. Trong nhà Phật , vào Rằm tháng Bảy có bốn câu như thế này:

“Trung Nguyên ngày hội vọng Vu lan

Bến giác chiều thu sóng đạo ngàn

Hởi ai là kẻ mang ân nặng

Hãy vận lòng thành đón Vu lan”

Trung Nguyên Rằm tháng Bảy là ngày hội Vu lan của đạo Phật. Bến giác chiều thu, chúng ta có phải là người đang ở bến giác, hay là xa rời bến giác? Nếu ai xa rời bến giác thì người đó không phải là Phật tử. Phật tử tức là con của bậc giác ngộ. Chúng ta nhất định phải ở bến giác hay qua bờ giác, mà giác này là trung tâm của đạo Phật, cho nên gọi đạo Phật là đạo giác ngộ.

Vu lan là dịp những người con mang nặng ân tình, ân nghĩa sâu đậm của cha mẹ trở về chùa, vận hết tất cả lòng thành để đón mừng lễ hội này bằng một cái tâm chí thành, chí hiếu, chí kính đối với cha mẹ của mình. Cho nên cha mẹ mình còn sống thì đây là dịp may và phước lớn cho chúng ta trở về phụng thờ để lo đáp đền báo hiếu. Đức Phật đã dạy: “Gặp thời không có Phật, nếu ai biết phụng thờ cha mẹ tức là phụng thờ Phật”.

Như vậy rõ ràng cha mẹ ngang tầm với Phật rồi. Tại sao mình cứ phải chạy đầu này đầu kia, vái lạy, cầu khẩn Phật ban phước cho mình, quan tâm đến mình, tạo điều kiện tốt cho mình, mà trong nhà mình có hai vị Phật, đó là cha và mẹ mà mình lại không biết, chính mỗi chúng ta đều có Phật để tôn thờ, đó là cha và mẹ. Vu lan rằm tháng Bảy là ngày chúng ta trở về nguồn cội tổ tông, thi ân, báo ân cho trọn vẹn hiếu đạo làm người. Nếu như chúng ta không hiếu dưỡng cha mẹ thì không thể nào trở thành người Phật tử chân chánh được. Người xưa đã nói:

“Tu đâu cho bằng tu nhà,

Thờ Cha kính Mẹ mới là chân tu.”

Như vậy, không nhất thiết ai cũng phải cần xuất gia mới gọi là chân tu, nếu ở nhà hiếu dưỡng cha mẹ thì đã là chân tu rồi. Còn nếu ai xuất gia mà làm khổ cha mẹ nhiều, thì như vậy đâu phải là người con thật sự, đâu phải là người chân tu. Mong rằng  trong lễ hội Vu lan năm nay, chúng ta biết quay trở về sống thật tâm, thật tốt đối với cha mẹ của mình thì ngày Vu lan mới có ý nghĩa thật sự.

Hiếu dưỡng cha mẹ không phải là một sự bắt buộc vô lý, xã hội loài người khác với xã hội loài vật. Con vật khi sanh con cái một thời gian sau khi con nó lớn lên nó không còn nhận ra con của mình nữa, và ngược lại con của nó cũng không còn nhận ra đâu là  cha mẹ mình. Chỉ có loài người mới có cái tôn ti trật tự này, mới nghĩ đến việc báo hiếu cha mẹ.

Nếu như ai lớn lên, bất hiếu với cha mẹ thì bị mọi người lên án, đánh đập cha mẹ thì có thể vào tù, hoặc loạn luân với cha mẹ thì gọi là con vật chớ không phải là con người. Rõ ràng chỉ có xã hội loài người mới có đầy đủ trí khôn để lập nên trật tự của xã hội như vậy. Do đó, hiếu dưỡng cha mẹ không phải là do mình bịa đặt để làm khổ cho những người con, mà đây là cái lý đương nhiên mà trí khôn của loài người phải làm như vậy. Nếu làm trái đi thì người ta xem thường và phải chịu hậu quả không tốt về sau. Phật dạy :

Tột cùng điều thiện là hiếu

Tột cùng điều ác là bất hiếu

Như vậy, chúng ta hiếu dưỡng cha mẹ, nếu nói là điều thiện thì đây là điều thiện tối cao. Điều đó  khẳng định rằng, khi hiếu dưỡng cha mẹ một đời, thì người đó về sau khi lâm chung sẽ sanh về cõi Chư Thiên để hưởng phước, còn ai không biết yêu thương phụng dưỡng cha mẹ thì khi chết sẽ bị đọa vào các cõi ác để chịu hình phạt. Ai biết thương yêu cha mẹ chân tình, thì chắc chắn người đó cũng biết đối xử tốt với tình làng, nghĩa xóm, bạn bè, bà con… Còn nếu mình sống tệ với cha mẹ, thì làm sao mình sống tốt với người khác được

Mỗi độ Vu lan về, hình ảnh thân thương của cha mẹ lại hiện lên trong trái tim của những người con hiếu hạnh. Mặc dù kinh tế thế giới đang khủng hoảng, nhưng thật ra khủng hoảng này tuy vậy không đáng sợ bằng khủng hoảng về đạo đức. Cái này mới đáng sợ nhất trong thế giới loài người. Chúng ta có thể nói dù nền văn minh nhân loại có phát triển đến đâu, thì đạo đức và tình người vẫn được suy tôn. Nếu như đạo đức và tình người không còn, thì xã hội loài người đã tự đào hố chôn mình và bắt đầu đi vào bóng tối.

Trong xã hội hiện đại ngày nay, đạo đức nền móng của cá nhân, gia đình đang xuống cấp. Rất nhiều người tỏ ra thờ ơ, vô cảm, không còn thương cha mẹ nữa. Trên nhiều phương tiện truyền thông chúng ta đã chứng kiến rất nhiều người con đã ngược đãi cha mẹ, chồng đánh vợ, vợ chồng sống không chung thủy…

Trên thế giới hiện giờ tình trạng bạo lực gia đình cũng đang diễn tiến, nhất là những xã hội, những đất nước ít quan tâm suy tiến về đạo đức, về tình người, thì có thể nói con người rất là tàn ác. Đối với cha mẹ, ruột rà của mình  mà mình còn đối xử như vậy, thì thử hỏi người đó bước ra ngoài xã hội  họ thật sự làm được gì cho xã hội, mà chính họ là cái họa ương của xã hội.

Gia đình nào cha mẹ sống đạo đức làm gương mẫu cho con cái, con cái sống hiếu nghĩa với cha mẹ, thì gia đình đó thực sự là hạnh phúc. Những cái gì cha mẹ làm, cha mẹ nói, cha mẹ nghĩ đều có ảnh hưởng đến con cái. Có thể nói xã hội văn minh là xã hội có những con người sống có hiếu, có nghĩa, có tình.

Mùa Vu lan là cơ hội để cho tất cả Tăng Ni, Phật tử tu tập tốt, làm tất cả mọi thiện sự, cúng dường Tam Bảo, giúp đỡ người già neo đơn, xây nhà tình nghĩa, làm mọi việc từ thiện, cứu đời, giúp người… Tất cả đều theo tinh thần “Thượng báo tứ trọng ân, hạ tế tam đồ khổ”, tu làm sao mà ở trên mình phải đền đáp được bốn ơn nặng – Ơn cha mẹ, ơn thầy tổ, ơn chúng sinh, ơn tổ quốc. Đây gọi là “tứ đại trọng ân”. Chúng ta gắng tu để trở thành một người tốt báo đáp được bốn ơn đó, xứng đáng là một công dân tốt với xã hội, là một người Phật tử chân chánh.

Lễ Vu lan đã ăn sâu vào đời sống văn hóa tâm linh của con người. Không những vậy, lễ hội Vu lan đã ăn sâu vào đời sống tâm linh của cả nhân loại. Lễ hội Vu lan này còn có tác dụng mạnh đến cả những thế giới vô hình. Đến ngày này chúng ta làm tất cả mọi điều tốt, mọi điều lành rồi hồi hướng cho những người đã khuất, hoặc cha mẹ mình, hoặc cha mẹ nhiều đời của mình, hoặc Cửu Huyền Thất Tổ, hoặc những chiến sĩ trận vong, đồng bào tử nạn, tất cả những anh linh bảo vệ hồn thiêng của sông núi…

Tính nhân văn của ngày lễ hội Vu lan rất sâu xa, rất đậm tình, không những loài người mà cả loài vật, không những loài vật mà luôn cho những người đã khuất. Tinh thần của Vu lan là xâu kết tình người, xâu kết tình làng nghĩa xóm, tình đồng bào, tình nhân loại, tình quê hương đất nước. Ngày này cũng suy tiến công trạng của những bậc tiền hiền, có công giữ nước, giữ làng. Có thể nói đây là ngày lễ hội văn hóa tình người.

Đến cuối cùng của lẽ sống chính là sự yêu thương. Và, sự yêu thương đó khởi đầu là cha mẹ đối với con cái, rồi con cái yêu thương cha mẹ. Sự hiếu thảo là điềm lành cho những thành công rực rỡ về sau của con cháu. Chúng ta thường thấy những đứa con sống hiếu thảo lớn lên nếu không giàu có thì cũng là người tốt được mọi người khen ngợi, để lại tiếng tốt cho đời. Những người con hiếu thảo sau này lớn lên, do cái phước của mình thường thành nhân chi mỹ và làm ăn dễ phát đạt, dễ thành công trên đường đời. Còn, những người nào sống bất hiếu, bất nghĩa thì thường hay gặp họa ương, bị mọi người khinh khi, rẻ rúng, xem thường. Nếu có làm điều gì thành công thì cái họa cũng thường kề bên để trả lại cái nhân mà mình đã bất hiếu với cha mẹ.

Có thể nói một cách khẳng quyết rằng, sự hiếu thảo là điềm lành cho hoa trái trĩu nặng. Ngày nay tất cả những người con Phật nhớ lại nguồn cội của mình để quay về nương tựa và làm những điều thiện lành, nuôi lớn tình thương vô ngã vị tha, đề cao chữ hiếu  trong lý duyên sinh của nhà Phật, đó là lý tưởng sống cao đẹp trong văn hóa dân tộc Việt Nam và các dân tộc tiến bộ trên toàn cầu.

Mùa Vu lan,  chính là mùa của yêu thương, trở về và đáp đền ân nghĩa.

“Dù ai buôn bán đâu đâu

Cứ rằm tháng Bảy mưa ngâu thì về”

Mùa Vu lan năm Tân Mão (2011)

Thiền Viện Trúc Lâm Viên Ngộ
Phan Rang – Ninh Thuận

KINH VU LAN – LỜI NGUYỆN CUỐI
Võ Tá Hân phổ nhạc


Uploaded by voyahan

Phật ở đâu?

“Thân Phật sắc vàng, cao một trượng sáu, đầy đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, hào quang chói sáng. ”

Một hôm tại một sườn non, chàng trai tình cờ gặp một cụ già râu tóc bạc phơ, cốt cách siêu phàm, mừng quá, chàng khẩn khoản:

– Thưa cụ, cụ có biết Phật đang ngụ ở đâu không… Xin chỉ dùm cho con với.

Ông lão mĩm cười:

– Ồ! Chỗ nào mà không có Phật… Trên quãng đường vừa qua, chả lẽ con không gặp được Ngài ư…

– Thưa cụ, trên đường đi con đã từng gặp vô số người, nhưng đều là hạng phàm phu tục tử cả. Con chưa từng thấy người nào có được vài tướng tốt như trong kinh đã mô tả về Phật cả.

Ông cụ cười ha hả:

– Cháu ngốc nghếch thật, cháu không biết rằng cái thân đầy đủ ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp đó người Ấn Độ đã đốt thành tro và chia nhau xây tháp thờ cúng cả rồi ư…

– Thưa, thế thì Phật chết rồi sao…

– Hiện giờ Đức Phật đang phân thân ở khắp mọi nơi. Ngài cũng mang thân tốt và xấu như chúng sinh vậy. Con có còn muốn gặp Ngài nữa không…

– Thưa, dù bất cứ với hình dáng nào, nếu đích thật là Ngài thì con vẫn vô cùng khát ngưỡng.

– Vậy thì, để ta mách nước cho con nhé… Con hãy quay về, trên đường về nếu con gặp người nào mang guốc trái ở chân phải, guốc phải ở chân trái thì người đó chính là một hóa thân của Phật. Hãy thừa sự và cúng dường vị Phật ấy như trong kinh đã dạy.

Chàng trai hối hả quay về. Suốt quãng đường dài, chàng không gặp Đức Phật nào mà hình dạng như cụ già diễn tả. Chán nản, chàng đi luôn về nhà. Trời đã khuya, bà mẹ còn chong đèn ngồi đợi con. Nghe tiếng gọi cửa bà mừng quá, quờ quạng tìm đôi guốc rồi chống gậy tất tả ra mở cửa.

Chàng trai thấy mẹ tiều tụy, nước mắt chảy dài trên đôi má nhăn nheo, mang lộn chiếc guốc trái qua chân phải, guốc phải sang chân trái. Chàng ôm chầm lấy mẹ nghẹn ngào: “Ôi Đức Phật yêu quí của con. “

Source: Hạt Giống Tâm Hồn

VU LAN NHỚ CHA
Nhạc Võ Tá Hân – Thơ Thích Nguyên Siêu


Uploaded by votahan

Ý NGHĨA NHỮNG BÔNG HỒNG VU LAN

Diệu Trân

Từ ít lâu nay, trong ngày lễ Vu Lan tại các tự viện, ban tổ chức thường có sẵn những gỉỏ hoa hồng để Phật tử cài lên áo trong ý nghĩa, ai còn mẹ thì cài hoa đỏ, ai đã mất mẹ thì cài hoa trắng. Giải thích như thế thì ý nghĩa cài hoa lên áo trong lễ Vu Lan sẽ chỉ hạn hẹp trong tinh thần mẫu tử cá nhân, thiếu hẳn phần căn bản là tinh thần Tự Độ và Độ Tha của Đạo Phật.

Thật thế, Vu Lan không phải chỉ là ngày báo hiếu của con cháu với ông bà cha mẹ. Sở dĩ chúng ta hiểu theo nghĩa hạn hẹp này chỉ vì chúng ta quen nhìn câu chuyện Ngài Mục Kiền Liên xuống Địa ngục cứu mẹ bằng con mắt thế tục. Nếu câu chuyện đó được nhìn bằng tuệ giác thì Ngài Mục Kiền Liên chính là tiêu biểu cho những hành giả, nhờ liễu ngộ Đạo pháp mà biết được sự khổ đau triền miên của chúng sanh vô minh; và bà mẹ Thanh Đề là tượng trưng cho tâm chúng sanh nhiễm ô điên đảo, nhờ thành tâm sám hối mới giao cảm được muôn thiện ý hướng về bà mà tự giác ngộ.

Nếu nhìn được hai nhân vật này qua lăng kính nhiệm mầu đó, thì việc cài hoa lên áo trong ngày Vu Lan mới vượt ra ngoài sự hạn hẹp cố hữu, không phải chỉ nghĩ về mẹ, mà còn phải khởi đi từ chính bản thân chúng ta. Ta phải làm gì để xứng đáng nhận một bông hoa ?

Theo tinh thần Tự Độ thì chúng ta phải tu học. Tu học ở đây là tùy duyên, hoặc may mắn gặp được thiện trí thức chỉ dẫn, hoặc do ta chuyên cần quán tưởng, đi lần từ thô tới tế, biết được lý duyên sinh vô ngã mà xả bỏ tham dục, thanh tịnh thân tâm. Con đường này thật dài mà cũng rất ngắn; thật dễ mà cũng rất khó, trong kinh Pháp Hoa có dẫn rằng:

Đản ly hư vọng
Danh vi giải thoát
Kỳ thật vị đắc
Nhất thiết giải thoát

Có nghĩa là, chỉ cần rời xa hư vọng thôi, đã được coi là giải thoát nhưng kỳ thật sự giải thoát đó chưa phải là giải thoát rốt ráo. Mà hễ hư vọng còn một tơ vương là nẩy sinh muôn vàn ràng buộc. Thế nên, cái khó là sự uyên nguyên, thiết thạch của lòng dũng mãnh phát Bồ Đề Tâm. Không có lời phát nguyện, dẫu chúng ta đốt đuốc lên rồi vẫn hoang mang chưa biết phải đi đâu ! Phát nguyện rồi phải kiên trì giữ vững, tín nguyện phụng hành.

Khó lắm ! Nhưng kinh cũng dẫn chứng, an ủi chúng ta rằng:

Nhẫn đến đồng tử giỡn
Nhóm cát thành tháp Phật
Những hạng người như thế
Đều đã thành Phật đạo.

Hoặc có đoạn nói rõ ràng hơn, như sợ chúng sanh không tin:

Nhẫn đến đồng tử giỡn
Hoặc cỏ cây và bút
Hoặc lấy móng tay mình
Mà vẽ làm tượng Phật
Những hạng người như thế
Lần lần chứa công đức
Đầy đủ tâm đại bi
Đều đã thành Phật đạo.
Nếu lòng người tán loạn
Vào nơi trong tháp miếu
Một xưng Nam Mô Phật
Đều đã thành Phật đạo.

Chúng ta thường tự dễ dãi, nhận mình là Phật tử mà ít quan tâm phản quang tự kỷ xem, là con Phật, chúng ta có thực sự tin và nghe lời Phật dạy hay không? Chư Phật đều có quảng trường thiệt tướng, thuyết thành thiệt ngôn, tướng lưỡi rộng dài là một, trong 32 tướng tốt, các Ngài chỉ nói lời chân thật. Vậy, là con Phật, sao chúng ta không tin lời Phật nói? Trẻ nhỏ chơi đùa ngoài bãi biển, lấy cát đắp thành tháp Phật, những trẻ nhỏ ấy đều đã thành Phật. Sao dễ thế? Bởi vì tâm chúng hoàn toàn trong sạch. Với tâm kim cương ấy, sao chúng không lấy cát đắp nhà lầu xe hơi mà lại đắp tháp Phật? Có phải chăng, trong tâm chúng đã sẵn ngôi tháp Phật? Rồi người dùng bút, cỏ cây, hay đơn giản hơn nữa là dùng móng tay mình mà vẽ hình Phật hoặc niệm danh hiệu Phật thì những người đó cũng đang gieo trồng hạt quý để đủ duyên sẽ nở rộ Liên Hoa. Cũng đơn giản quá ư? Vâng, thật là đơn giản nhưng nét thảo đơn sơ đó, lời niệm thành khẩn đó phải phát xuất từ máu xương, da thịt, từ cạn tận càn khôn trí tuệ mà tán thán công đức bất khả tư nghì mới mong đạt tới:

Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn
Lưới đế châu ví đạo tràng
Mười phương Phật hiện hào quang sáng ngời

Sự dễ dàng, sự đơn giản là hành động phải khởi từ tâm thành. Long Nữ tháo xâu chuỗi cúng dường Phật, chớp mắt, cô bé đã đắc đạo, hiện thân nam tử, đi qua cõi Vô Cấu phương Nam, ngồi tòa sen báu, diễn nói pháp mầu. Sự kiện thì diễn ra như thế nhưng có phải Long Nữ thành Phật chỉ vì cúng dường xâu chuỗi đâu, mà hành động dâng cúng là thời điểm đủ duyên của sự tu tập nhiều kiếp.

Chúng ta đã khởi hành chưa? Không đi, sẽ không tới. Không tu, sẽ không chứng. Hãy tạm bước những bước chậm rãi mà vững chắc thì ngại gì có ngày trí huệ Bát Nhã chẳng hiển bầy để an nhiên ngay nơi “không chứng cũng không đắc”.

Tự Độ rồi chưa đủ, chúng ta còn phải Độ Tha. Gần nhất, hãy giúp cha mẹ, quyến thuộc biết tìm về cửa Đạo bằng những phương cách mà, chỉ cần một chút hy sinh, một chút cố gắng, chúng ta có thể làm được. Đó là rủ họ, đưa đón họ tới chùa những ngày rằm, ngày lễ, thỉnh kinh sách, băng giảng, khuyền dụ họ nghe; những lúc gặp gỡ, xen vào chuyện sinh hoạt thường nhật là những câu truyện đạo, những điển tích chứng minh sự nhiệm mầu của giải thoát khi liễu ngộ vô thường. Rồi từ cha mẹ, quyến thuộc, chúng ta tiến xa hơn là khuyến tấn bạn bè, nhân thế cùng chúng ta tầm sư học đạo để nhận thức chân, giả, đoạn trừ vô minh, quyết đời này phải giải thoát được sanh tử luân hồi.

Là con Phật, chúng ta đều biết rằng, luận về nhân đạo thì trong trăm hạnh, hiếu hạnh đứng hàng đầu. Quỳ trước ban thờ Tổ Tiên, chúng ta thường xin hồi hướng công đức tới cửu huyền thất tổ mà quên xét rốt ráo là công đức đó ở đâu? Chắc chắn không phải ở mâm cao cỗ đầy! Vậy lấy gì mà xin hồi hướng? Như người không gửi tài sản gì trong băng mà tới nhà băng đòi rút tiền thì tiền đâu mà rút !

Tôn giả Mục Kiền Liên đã là một, trong hàng Đại Đệ tử của Phật, đã thấm nhập kinh tạng, nguyện lực dũng mãnh, trí đức vẹn toàn mà còn phải nương nhờ nguyện lực của toàn thể Chư Thánh Tăng từ mười phương vân tập về trong ngày Tự Tứ mới hồi hướng công đức đó, chuyển hóa nghiệp lực của Mẹ Thanh Đề. Còn chúng ta xác phàm, tâm phàm muốn báo hiếu ông bà cha mẹ theo tinh thần Phật đạo thì phải làm sao đây???

Nhân ngày Lễ Vu Lan, chúng ta hãy cùng nhau tự xét về 2 điều căn bản: Tự Độ rồi Độ Tha. Với tâm thành, Chư Phật, Chư Bồ Tát sẽ hộ trì chúng ta hái được đóa hồng Vu Lan xứng đáng trong tinh thần báo ân cao cả.

Đây chính là món quà ý nghĩa nhất để chúng ta hồi hướng tới ông bà cha mẹ quá khứ, hiện tiền và vị lai.

Chúng con về nương tựa Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Chúng con hướng tâm thành về Đại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ Tát

Diệu Trân
Vu Lan 2006

Source: thuvienhoasen

July 29 - 2015 (15)BÔNG HỒNG HIẾU HẠNH

TNT Mặc Giang

Trước Phật đài Tam Bảo chứng minh. Trong bửu điện trang nghiêm thanh tịnh. Đại Lễ Vu Lan Thắng Hội thập phần viên mãn. Mùa Báo Hiếu thiêng liêng lan tỏa khắp mười phương. Chắc chắn ba ngàn thế giới lay chuyển sáu lần rung động. Chắc chắn mười tám tầng địa ngục sẽ được mở toang. Bởi công ơn Cha Mẹ là một sự hiện hữu nhiệm mầu, tình thương Cha Mẹ là tất cả đất trời cao rộng, ngân hà xao xuyến, vũ trụ nao nao, trăng sao vằng vặc. Là con hiền cháu thảo, ai ai cũng lặng yên, ai ai cũng trầm lắng, để nghe trong sâu thẳm tâm hồn tiếng nói dâng lên cho Cha, dâng lên cho Mẹ trong giờ phút trang trọng này đây.

Một bông hồng nào xin dâng lên quý Thầy ! Một bông hồng nào xin dâng lên quý Sư Cô! Bông hồng nào cho Bác, cho Chú, cho Thím! Bông hồng nào cho anh, cho chị, cho em! Và xin hỏi, còn bông hồng nào cho tôi ?

Chúng ta hãy đón nhận thật chân thành, thật trọn vẹn. Hạnh phúc thay cho những ai còn mẹ! Diễm phúc thay cho những ai còn cha! Và, chữ và, xin chia sẻ với những ai đang cài hoa trắng!

Nhìn đóa hoa màu hồng trên áo quý vị, xin không cần nói một lời nào, mà quý vị hãy lặng yên, mỉm cười, sung sướng và sống trọn vẹn đi!

Nhìn đóa hoa màu trắng, biết chia sẻ gì đây, sẽ không có một ngôn từ nào thấm cùng trong nỗi lòng sâu lạnh, dù có lớn bao nhiêu, cũng sẽ mang cho đến trọn đời thân phận mồ côi.

Hai chữ Mẹ Cha, chúng ta không cần nói nhiều, mà chỉ ao ước còn tiếng Mẹ để chúng ta thưa, còn tiếng Cha để chúng ta trân quý. Không cao kỳ, không trau chuốt, không phết sơn. Bởi còn cha mẹ là còn tất cả, mất cha mẹ là mất tất cả. Đức Phật từng dạy “Phụ mẫu tại tiền như Phật tại thế”, nghĩa là Cha Mẹ còn sống giống như Đức Phật đang còn trên thế gian này. Ca dao Việt Nam cũng nói : “Còn cha còn mẹ là hơn, Không cha không mẹ như đờn đứt dây”.

Từ xưa tới nay và mãi mãi đến mai sau, hai chữ Cha Mẹ, có lẽ được nói nhiều nhất và được viết nhiều nhất. Hai chữ Cha Mẹ là cội gốc của tình thương vô tận và suối nguồn của đạo đức bao la, đã góp phần rất lớn trong gia tài văn hóa văn học nhân loại. Hai chữ Cha Mẹ, đã làm cho sách báo, văn chương, thi phú được chồng lên cao hơn. Vào nhà sách, thư viện, ghé mắt vào những tựa đề về Mẹ, về Cha, tình mẫu tử, tình phụ tử, các nhà văn nhà thơ đã đào sâu trong tận đáy con tim và mọi góc cạnh khối óc, sẽ thấy hai chữ Cha Mẹ được diễn tả tuyệt siêu, nhưng vẫn chưa hết và đôi khi ngượng ngập ngôn từ. Không những thế, trong cung bậc Tao đàn, trên sân khấu nhạc hội, và rừng hội họa nghệ thuật cũng diễn xuất không cùng. Thời đại tin học hôm nay, những gì về Cha về Mẹ cỡi trên sóng điện vi tính thiên thần, kỳ ảo thêm, diễm lộng thêm.

Ngôn từ Cha Mẹ còn bình dân hơn, gần gũi hơn, đơn sơ hơn. Tiếng võng đưa kẽo kẹt sau hè, hay nằm trong nôi em khóc, mẹ sẽ hát sẽ ru em ngủ, chị sẽ hát sẽ ru em ngủ ! Chắc chắn nhiều khi, có những hình ảnh thật tội nghiệp, người Cha hay người anh khốn khổ ẵm em em cũng khóc, ru em em cũng khóc, và người cha hay người anh nhìn em bằng ánh mắt gần như van lơn mà vẫn bất lực, không biết phải làm gì cho em. Trong chúng ta, tôi dám quả quyết ai cũng đã hơn một lần đã làm như thế !

Em bé “Ba năm bồng ẵm cảm ơn Cha”, đã biết nói hai tiếng Ba, Ba đầu đời.. “Chín tháng cưu mang nhờ đức mẹ”, trong vòng tay bú mớm, em đã biết nói hai tiếng Má, Má thương yêu. Đến lúc lớn lên, trưởng thành, đi vào trường đời, đi vào xã hội, dù có làm ông nọ bà kia, hay phập phù giữa bại thành cuộc thế, dù được sống gần hay đang ở đâu xa, vẫn hỏi thăm và thưa ba thưa mẹ. Trong quán trọ vô thường một khi băng qua khúc rẽ ly tan, dòng tử sinh đôi bờ một khi gõ nhịp đành đoạn tạ từ, ta sẽ thảng thốt kêu lên Mẹ ơi, Ba ơi, và thế là nước mắt ta ràng rụa, lòng ta nát tan, trăng sao kia sẽ không đủ sáng giữa vòm trời, vật chất phù du kia sẽ tả tơi theo bèo bọt. Không phải chỉ đang lúc đó, mà kể từ ngày đó trở đi, cho đến bây giờ, mãi mãi mai sau, mỗi khi thương cha nhớ mẹ, ta như con đom đóm lập lòe tìm gọi bóng đêm, hay như kẻ lạc loài mò mẫm giữa hư vô và cúi mặt trước lâu đài phụ mẫu, nghe tiếng lòng thổn thức.

Trong chánh điện này đây, trước lễ đài này đây, giữa hội trường này đây, dù ai cài hoa hồng vẫn lo sợ, lo sợ gì mà “Đêm đêm thắp ngọn đèn trời, Cầu cho cha mẹ sống đời với con”. Còn những ai cài hoa trắng thì, chừng như tấm lòng quý vị trống vắng không cùng, và chừng như hai con mắt của quý vị nhìn thật xa xôi. Kia kìa, thấy chưa, không phải chừng như, mà thật sự hai con mắt quý vị đang tròn xoe, bờ mi đã ướt lên rồi. Một cụ già, đôi vành khô vẫn còn đủ sức long lanh, vài cụ lớn tuổi đôi bờ khô khốc, nhưng nước gì đang chảy ra, gạt lệ tay lau. Người trung niên cũng lặng lẽ, trầm ngâm. Thế còn anh, còn chị, còn em, sao lại cúi xuống, đỏ hoe ! Cả Thầy nữa, rồi Sư Cô nữa ! Xin lỗi nghe, chúng tôi không có dám đâu, và đâu có làm gì ?

Thưa quý vị. Hình ảnh trên đây không phải chỉ có hôm nay, mà đã nhiều lần, thật nhiều lần, vào mỗi độ Trung Nguyên, mỗi Mùa Hiếu Hạnh. Ngay cả chỉ một Mùa Báo Hiếu thôi, trong quý vị sẽ có người đi dự nhiều nơi, tôi đã chứng kiến đôi mắt quý vị lại tái lập như thế. Nếu hỏi tại sao, thì quả thật vô tình, một câu hỏi rất vô duyên. Nước mắt cho cha cho mẹ mà không biết chảy ra, không biết ngấn lệ, không biết vo tròn, thì xin lỗi, ta còn thua em bé và ta chưa lớn nổi làm người ?

Trong chúng ta, ai không nằm lòng “Công Cha như núi Thái Sơn, Nghĩa Mẹ như nước trong nguồn chảy ra”, ai không từng nghe “Lòng Mẹ bao la như biển Thái Bình rạt rào” hay “Mẹ già như chuối ba hương, Như xôi nếp một như đường mía lau”.

Bao nhiêu sách vở viết về Đức Mẹ
Bao nhiêu chữ nghĩa viết về Công Cha
Dù có nhiều như vũ trụ bao la
Cũng không thể diễn tả hết được Tình Cha Nghĩa Mẹ”

“Tình thương Mẹ, biển Đông thấm vào đâu
Công đức Cha, núi Thái làm sao sánh
Dù đem cả hằng hà sa pháp giới
Cũng không sao đánh đổi hai chữ Song Đường
Xin đi khắp cõi vô thường
Soi ngàn đuốc tuệ thắp đường Từ Thân
Xin đi khắp cõi phù vân
Noi gương hiếu hạnh ân cần Mẹ Cha”

Hãy hình dung thời Đức Phật còn tại thế, hình như đôi mắt của Ngài mà ta tôn xưng Phật nhãn, vẫn lưng tròng khi Phụ Hoàng băng hà, vẫn rưng rưng khi đứng hầu kim quan, và trên đường di quan vẫn từng bước chân nặng trĩu. Lại một lần kia, khi cùng Tăng Đoàn đi khất thực, hỏi còn hình ảnh nào rung cảm hơn, xúc động hơn, chính Đức Phật đã :

Đáo bán lộ rành rành mắt thấy
Núi xương khô bỏ đấy lâu đời
Thế Tôn bèn vội đến nơi
Lạy liền ba lạy rồi rơi giọt hồng”

Ôi, cao thượng thay Đấng Thiên Nhơn chi Đạo Sư !
Ôi, quý hóa thay Đấng tứ sanh chi Từ Phụ !

Phải chi Ngài điều ngự nơi đây cho chúng con đãnh lễ tôn thờ. Một kiếp này thôi, ân nghĩa cha mẹ, chúng con chưa trọn vẹn, nói chi đến quá khứ đa sanh phụ mẫu! Một kiếp này thôi, bổn phận con hiền cháu thảo, chúng con mang bao nỗi đành đoạn đắng cay, thì làm sao đền đáp công ơn cha mẹ nhiều đời.

Phải chi Bồ Tát Mục Kiền Liên đang ở đâu đây, chúng con xin nương theo thần lực của Ngài để đi tìm khắp muôn hướng ngàn phương, đi sâu vào địa ngục dù có vô số cửa ngõ A Tỳ, chỉ cần nhìn thấy, Mẹ chúng con đang ở đâu, Ba chúng con đang ở đâu, rồi muốn làm gì chúng con xin nguyện tận lực hành trì.

Đâu cần nói chi xa phải không thưa quý vị? Trong cuộc đời, bao nhiêu người được sống nơi chốn quê nhà, nhưng biết bao nhiêu người phải sống tha phương bởi duyên nghiệp hay hoàn cảnh khác nhau. Chỉ mong sao được về thăm nơi chôn nhau cắt rốn, được nhìn lại bàn thờ từ đường, ấp ủ dưới mái nhà tranh, bếp lửa hồng êm vợn khói, thoang thoảng hương cau, thơm thơm gạo mới. Và kia, dòng sông Quê Ngoại, bến cũ Quê Nội, đường đất bên làng, lối ngõ đầu thôn, rẽ ngang xóm nhỏ , ruộng lúa ngô đồng, “Làng quê nghèo cuối phương trời biền biệt, Bóng thời gian không đủ sức nguôi ngoai, Vẫn đong đầy và sống mãi trong tôi, Lỡ nhắm mắt ôm khối sầu muôn thuở”.

Và kia, ai sống thị thành, phố phường đô hội, “Những lối đi chạy ngang qua đất đỏ, Những lối về chạy dọc dưới trời xanh, Những mạch máu của trái tim thành phố, Những đốt xương của thân thể châu thành, Những con đường chúng mang hồn dân tộc, Qua không gian không thay đổi danh từ, Lối cỏ mới đề huề reo ánh sáng, Khách đi về cảm thấy khác tâm tư”. Rồi được đến thăm nấm mồ của Mẹ của Ba, bên Ông Bà Nội Ngoại Tổ Tiên, lục thân quyến thuộc quá vãng, để quỳ, để khóc, để thương, để nhớ, để được thắp một nén hương, mà kiếp sống xa nhà, dù đã 10 năm, 20 năm, 30 năm, hay hơn nữa, nhưng vẫn xin khẳng quyết mọi vùng đất dung thân không phải là cố quận, lại càng không phải quê hương của mình. Nhưng, “Khung trời quê vẫn ngậm sầu, nghìn trùng xa cách. Cõi trời quê vẫn chôn chặt, tận đáy hồn đau”.

Xin Cha tha cho chúng con. Xin Mẹ tha cho chúng con. Xa hơn nữa, chúng con xin tạ tội với người Cha cội nguồn của Văn Lang, xin khấu đầu với người Mẹ đầu tiên của Bách Việt, đã cho chúng con được mang dòng giống Lạc Hồng, tóc đen da vàng máu đỏ, nhưng lại mang một mảnh hồn đau và một trái tim nhức nhối.

Bạch quý Thầy, quý Sư Cô,
Thưa quý vị lớn tuổi cùng toàn thể anh chị em,

Một bông hồng đã đầy đủ chưa? Một bông trắng đã thấm thía chưa? Theo tôi, phải là một rừng bông hồng để dâng lên Mẹ, hay một rừng bông trắng để khóc cho Cha. Một rừng bông hồng để khơi động tình thương, và một rừng bông trắng để xóa tan vụn vỡ. Một rừng bông hồng để gìn giữ nâng niu, và một rừng bông trắng để tạ từ miên viễn.

Nguyện cầu mười phương Chư Phật chứng minh
Nguyện cầu hồng ân Tam Bảo gia hộ
Nguyện cầu Đức Đại Hiếu Mục Kiền Liên soi sáng cho chúng con
Nguyện cầu hồn thiêng sông núi Việt Nam gia hộ cho toàn dân nước Việt.

Và mầu nhiệm thay, thiêng liêng thay, chúng ta cùng nhắm mắt, chắp tay :

Ba ngàn thế giới đang rung động !
Tam đồ bát nạn đang mở toang !
Một bông hồng biến thành vô số bông hồng để trọn vẹn mùa hiếu hạnh.
Một bông trắng thấm sâu vô số bông trắng để kết nẻo phương đài.
Đó mới thật sự là Bông hồng cài áo !
Đó mới thật sự là bông trắng cưu mang !
Đó mới thật sự là Mùa Vu Lan Thắng Hội !
Đó mới thật sự là Giải Cứu Đảo Huyền, độ thoát hàm linh !
Trân trọng và trân trọng nhớ ân !
Chân thành và chân thành nhớ mãi !

Ngưỡng dâng Chư Tôn Đức Tăng Ni
Kính chào toàn thể liệt quý vị.

Nam Mô Đại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ Tát Ma Ha Tát.

Mùa Hiếu Hạnh 2009
TNT Mặc Giang

Source: thuvienhoasen

July 29 - 2015 (8)

NẶNG TÌNH VU LAN

Thích Tâm Mãn

Vu Lan về rồi nhưng sao trong lòng không thấy khởi niệm hân hoan, tôi hỏi lại mình hay còn thiếu gì chăng? Mưa, không! mưa phố núi đã rơi đều suốt tháng ngày cuối hạ, tí tách giọt đều dẫn người lại gần với mùa thu. Lá vàng ư! không hàng liễu trước chùa nay đã úa vàng rơi gần hết, trơ cả cành mềm chịu gió táp mưa sa, cơn gió chợt về xì xào đám sen mùa lá đỏ, xan xát vì héo gầy, rách nát bởi khô khan. Tiếng ve gọi hè gần như đã im bặt, trả lại gió ngàn đong đưa lá vàng xào xạc đón thu sang, thu đã sang, Vu Lan đã về sao cứ thấy lòng nặng trĩu, ngồi một mình với tách trà thu, am vắng, thử hỏi một lần lòng nặng trĩu vì đâu.

Ai không biết Vu Lan là mùa Báo Hiếu, có ai không hiểu là mọi người nên tưởng nhớ đến công ơn hai đấng sanh thành, rồi làm gì đó để bày tỏ lòng mình quan tâm, hiếu thảo, cảm ơn, có người chỉ cần đứng trước mẹ sâu lắng nói một lời Vu Lan: “Mẹ ơi! mẹ biết con thương mẹ lắm không?”, lại có người tụng Kinh Vu Lan dùng lời Phật để đáp đền ân đức, lại cũng có người cúng dường tứ sự lên Tăng để đem công đức hồi hướng báo hiếu cha mẹ. Vâng tất cả là Vu Lan của người con hiếu hạnh, cứ mỗi năm về mọi người lại một lần thương.

Vu Lan của người Phật tử tại gia là như vậy, Vu Lan của người xuất trần “Bát cơm xin vạn nhà, thân đi muôn dặm xa, chỉ vì việc sanh tử, mây trắng hỏi đường qua”. Người xuất gia báo hiếu ai đây, ngồi đọc lại những lời xưa Tổ dạy trong Quy Sơn Cảnh Sách: “Người xuất gia đối với cha mẹ thì không cung phụng món ngon vật lạ, đối với thân quyến rời bỏ xa cách không gần… đối với gia tộc không màng đến nghĩa vụ thừa kế, xa làng bỏ xóm, cắt tóc đi tu…”. Như vậy thì Vu Lan với người xuất trần không có ý nghĩa gì hay sao?

Không! Vu Lan của người xuất thế ngoài lắng sâu trong tiềm thức tưởng nhớ mẹ cha, hiếu nghĩa ông bà còn phải làm những việc hiếu mà người ngoài thế khó có thể đảm đương nổi như trong Quy Sơn Cảnh Sách Tổ dạy: “Người xuất gia phải có tâm chí vượt ra khỏi trời đất, nên cất bước thì hướng tới phương trời cao rộng, từ tâm ý cho đến hình tướng phải đều khác hẳn với người thế tục, là hạt giống lành nối tiếp ngày càng làm rạng rỡ thêm nhà Phật, làm cho chúng ma phải khiếp sợ khuất phục, với tâm niệm báo đáp bốn ân, cứu vớt ba loài”. Báo hiếu Vu Lan của người xuất gia là như vậy.

Vu Lan về, lời Phật dạy còn đó, lời Tổ đinh ninh chúng ta đã làm được gì? hay chỉ là như làm cho thêm buồn, như ý Tổ dạy trong sách Quy Sơn: “Sao lại mới bước lên phẩm bậc của giới pháp, mà đã tự thị ta đây là vị Tỳ Kheo. Dùng của cúng dường của Đàn na thí chủ, ăn ở tiêu hao của thường trụ, không biết xét kỹ vì sao mà có của ấy, lại bảo rằng lẽ tự nhiên là người phải hiến cúng. Ăn rồi, xúm đầu huyên náo, chỉ nói toàn chuyện tạp của thế gian…”. Nếu là như vậy Vu Lan về thật là vô nghĩa.

Như vậy thì làm sao chúng ta có thể nhận biết được Vu Lan đã về, Vu Lan còn ý nghĩa gì trong cuộc sống của chúng ta, vì chúng ta đang mải miết say mê trong ảo cảnh, không hiểu tu tập để làm gì như trong Quy Sơn Tổ dạy: “Cứ thừa dịp vui thích, mà không biết chính cái vui ấy là nguyên nhân của sự khổ đau. Bao kiếp xưa kia, đem thân si mê theo trần cảnh, chưa từng phản tỉnh, thì giờ này chỉ để năm tháng dần qua, không lo tu học, mất mát khôn cùng, thọ hưởng càng nhiều, của thí lợi càng lắm, hết năm này qua năm khác mà không biết nghĩ đến sự rời bỏ, có hiểu đâu chất chứa càng nhiều cũng chỉ là bảo trì thân xác giả huyễn mà thôi…”. Nếu một ngày nào đó vô thường vẫy gọi, hỏi lại ta đã làm được gì để báo đáp trọng ân Vu Lan, ân Tam Bảo ơn tín thí đàn na.

Hay cuối cùng rồi chúng ta cũng chỉ là như vậy, không khác gì với ngày mới cắt tóc quy y. Như Tổ Quy Sơn từng chỉ dạy: “Quả là kẻ chưa bao giờ nghe đến sự hành trì và huấn dụ của Phật dạy bảo, nên suốt bao năm cũng chỉ có một chiều hướng, tánh tình vẫn còn như cũ giữ y nguyên. Cung cách chẳng khác gì ngày xưa biếng nhác, ham muốn những điều xấu xa y như thói cũ, dần dà theo đời, hóa thành kẻ không tăng không tục. Thế rồi bất giác lóng cóng đã đến ngày già yếu, gặp việc thì như đối diện với tường vách. Hậu học thưa hỏi thì không có lời chỉ để hướng dẫn tu hành…”.

Nếu là như vậy thật oan uổng cho một kiếp tu hành, lấy gì để Vu Lan về báo đáp thâm ân. Thử hỏi cha mẹ nào nghe con mình tu hành như vậy mà sanh tâm hoan hỷ, Thầy Tổ nào hãnh diện vì có một người học trò tu học kiểu như trên, vậy thì ta lấy chi để báo đáp? sao chúng ta có thể cho phép mình làm những việc vô tâm.

Tổ Quy Sơn dạy: “… ai kia đã là đấng trượng phu thì ta đây cũng có thể làm được như thế, đừng tự khinh thị mình mà lùi bước và khuất phục trước khó khăn…”. Nếu ý thức được như vậy, thì có gì mà ta không làm được, khó khăn nào mà ta chẳng vượt qua, và không có thành tựu nào mà ta không thể thành tựu, được như vậy mới thật là vâng lời Tổ dạy: “…là người chẳng phải là bậc thượng trí, không dễ có thể mau vượt lên được, thì nên hãy để tâm trí vào học hành giáo pháp, ôn cho thuộc, tìm kiếm sưu tra kinh điển cho rõ pháp Phật, nghiên cứu tinh tường nghĩa lý, để rồi truyền bá diễn giảng dẫn dắt người sau, báo đáp ơn Phật. Đừng để uổng phí thời gian, lấy công hạnh huân tu trên đây mà hỗ trợ đời mình. Như thế thì động cũng như tĩnh đều có uy nghi, tự mình biến thành bậc “pháp khí” trong hàng Tăng bảo…”.

Nếu làm được như vậy, thì đây là món quà Vu Lan hiếu hạnh lớn nhất trong thế gian, còn bằng không thì chẳng khác nào bị Tổ quở trách trong Quy Sơn Cảnh Sách : “…ở trong hàng ngũ của người xuất gia chỉ là vô ích, dần dà phí hết cả một đời mà quả thực không có một chút ích lợi gì hết…”. Lắng lòng nghe lời Tổ dạy, tự mình sám hối ăn năn, có trễ nhưng chưa muộn, vì Vu Lan còn về để rồi lại nhận yêu thương.

Ngoài hiên gió đùa càng thêm hiu hắt, lại vài giọt mưa buồn thêm chút vọng Vu Lan, đọc lại những lời Tổ dạy ngày xưa, sao nghe nát cả cõi lòng, bỗng thấy thẹn mình chưa trọn một kiếp tu, mỗi năm thu đến lá vàng, Vu Lan lại về để đón nhận tình thương. Thương cho ta chưa tròn tâm tu học, thương cho cha mẹ già đang ngóng chờ công đức tu hành của con thơ, thương cho thầy tổ ngóng trông những hạt giống lành để trùng hưng Tam Bảo, thương cho Phật Đà hy vọng Chánh pháp sẽ có người truyền thừa xiển dương, tất cả tình thương ngóng trông đều từ đâu? ấy vậy Vu Lan về sao ta lại không hay biết!

Thôi thì chúng ta hãy vì niệm nặng tình yêu thương của Vu Lan phát tâm cố gắng, như Tổ đã dạy: “…bên trong thì siêng tu tập công phu khắc trừ niệm ác, bên ngoài thì hiển bày đức tính hiền hòa, xa lìa trần tục, mong cầu giải thoát”, để rồi có thể làm được những gì mà Tổ căn dặn trong Quy Sơn thì không uổng phí luống qua một kiếp tu hành, thành tựu trọn vẹn yêu thương dâng lên cúng dường Vu Lan Thắng Hội: “tu hành mà động cũng như tĩnh đều được an nhiên, như vậy mới thật không uổng phí, mặc một đời khoác áo cà sa, như vậy cũng tức là đền đáp bốn ân, cứu giúp ba cõi. Nếu có thể đời đời không thoái chuyển thì quả vị Phật Đà quyết chẳng còn xa, để rồi là lữ khách tự tại dạo chơi trong ba cõi, đến đi ra vào đều làm khuôn phép cho người sau…”.

Báo ân Vu Lan của người xuất gia là như vậy, tình thương Vu Lan xuất trần là như thế, nếu là con Phật, không ai không có ngày tu hành đạt đến tình thương Vu Lan xuất thế, không cha mẹ nào không mong muốn con mình thoát khổ sanh vui, nặng tình mong hoài hậu học xuất ly khổ hải của các bậc Tiên giác Đạo sư, nếu như hiểu được, ngộ được thì Vu Lan tròn niềm hiếu đạo, còn bằng không hết thảy chỉ hoàn không, luống qua vô ích. Nặng tình Vu Lan biết lấy chi đền đáp, phát nguyện tu hành mới thật là báo đáp tứ ân.

Thích Tâm Mãn

(Chùa Minh Thành)

Source: thuvienhoasen

Bông hồng cài áo

Tác giả : Thích Nhất Hạnh

Ý niệm về mẹ thường không thể tách rời ý niệm về tình thương. Mà tình thương là một chất liệu ngọt ngào, êm dịu và cố nhiên là ngon lành. Con trẻ thiếu tình thương thì không lớn lên được. Người lớn thiếu tình thương thì cũng không “lớn” lên được. Cằn cỗi , héo mòn. Ngày mẹ tôi mất, tôi viết trong nhật ký: Tai nạn lớn nhất đã xẩy ra cho tôi rồi! Lớn đến mấy mà mất mẹ thì cũng như không lớn, cũng cảm thấy bơ vơ, lạc lõng, cũng không hơn gì trẻ mồ côi. Những bài hát, bài thơ ca tụng tình mẹ bài nào cũng dễ, cũng hay. Người viết dù không có tài ba, cũng có rung cảm chân thành; người hát ca, trừ là kẻ không có mẹ ngay từ thuở chưa có ý niệm, ai cũng cảm động khi nghe nói đến tình mẹ. Những bài hát ca ngợi tình mẹ đâu cũng có, thời nào cũng có. Bài thơ mất mẹ mà tôi thích nhất, từ hồi nhỏ, là một bài thơ rất giản dị. Mẹ đang còn sống, nhưng mỗi khi đọc bài thơ ấy thì sợ sệt, lo âu…. sợ sệt lo âu một cái gì còn xa, chưa đến, nhưng chưa chắc chắn phải đến :
.
Năm xưa tôi còn nhỏ
Mẹ tôi đã qua đời !
Lần đầu tiên tôi hiểu
Thân phận trẻ mồ côi.
.
Quanh tôi ai cũng khóc
Im lặng tôi sầu thôi
Ðể dòng nước mắt chảy
Là bớt khổ đi rồi… .

Hoàng hôn phủ trên mộ
Chuông chùa nhẹ rơi rơi
Tôi thấy tôi mất mẹ
Mất cả một bầu trời.
.

Một bầu trời thương yêu dịu ngọt, lâu quá mình đã bơi lội trong đó, sung sướng mà không hay, để hôm nay bừng tỉnh thì thấy đã mất rồi. Người nhà quê Việt nam không ưa cách nói cao kỳ. Nói rằng bà mẹ già là kho tàng của yêu thương, của hạnh phúc thì cũng đã là cao kỳ rồi. Nói mẹ già là một thứ chuối, một thứ xôi, một thứ đường ngọt dịu, người dân quê đã diễn tả được tình mẹ một cách vừa giản dị vừa đúng mức :

Mẹ già như chuối ba hương 
Như xôi nếp một, như đường mía lau.
.
Ngon biết bao ! Những lúc miệng vừa đắng vừa nhạt sau một cơn sốt, những lúc như thế thì không có món ăn gì có thể gợi được khẩu vị của ta. Chỉ khi nào mẹ đến, kéo chăn đắp lên ngực cho ta, đặt bàn tay trên trán nóng ta và than thở “khổ chưa, con tôi “, ta mới cảm thấy đầy đủ, ấm áp, thấm nhuần chất ngọt của tình mẹ, ngọt thơm như chuối ba hương, dịu như xôi nếp một, và đậm đà lịm cả cổ họng như đường mía lau. Tình mẹ thì trường cửu, bất tuyệt; như chuối ba hương, đường mía lau, xôi nếp một ấy không bao giờ cùng tận.

Công cha như núi Thái sơn,
nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
.

Nước trong nguồn chảy ra thì bất tuyệt. Tình mẹ là gốc của mọi tình cảm yêu thương. Mẹ là giáo sư dạy về yêu thương, một phân khoa quan trọng nhất trong trường đại học cuộc đời. Không có mẹ, tôi sẽ không biết thương yêu. Nhờ mẹ mà tôi được biết tình nhân loại, tình chúng sinh ; nhờ mẹ mà tôi biết được thế nào là tình nhân loại, tình chúng sinh ; nhờ mẹ mà tôi có được chút ý niệm về đức từ bi. Vì mẹ là gốc của tình thương, nên ý niệm mẹ lấn trùm ý thương yêu của tôn giáo vốn dạy về tình thương.

Đạo Phật có đức Quan Thế Âm, tôn sùng dưới hình thức mẹ. Em bé vừa mở miệng khóc thì mẹ đã chạy tới bên nôi. Mẹ hiện ra như một thiên thần dịu hiền làm tiêu tan khổ đau lo âu. Đạo Chúa có đức Mẹ, thánh nữ đồng trinh Maria. Trong tín ngưỡng bình dân Việt có thánh mẫu Liễu Hạnh, cũng dưới hình thức mẹ. Bởi vì chỉ cần nghe đến danh từ Mẹ, ta đã thấy lòng tràn ngập yêu thương rồi. Mà từ yêu thương tín ngưỡng và hành động thì không xa chi mấy bước.

Tây phương không có ngày Vu Lan nhưng cũng có Ngày Mẹ ( Mother’s Day ) mồng mười tháng năm. Tôi nhà quê không biết cái tục ấy. Có một ngày tôi đi với Thầy Thiên Ân tới nhà sách ở khu Ginza ở Đông Kinh, nửa đường gặp mấy người sinh viên Nhật, bạn của thầy Thiên Ân. Có một cô sinh viên hỏi nhỏ Thầy Thiên Ân một câu, rồi lấy ở trong sắc ra một bông hoa cẩm chướng màu trắng cài vào khuy áo tràng của tôi. Tôi lạ lùng, bỡ ngỡ, không biết cô làm gì, nhưng không dám hỏi, cố giữ vẻ tự nhiên, nghĩ rằng có một tục lệ chi đó. Sau khi họ nói chuyện xong, chúng tôi vào nhà sách, thầy Thiên Ân mới giảng cho tôi biết đó là Ngày Mẹ, theo tục Tây phương. Nếu anh còn mẹ, anh sẽ được cài một bông hoa màu hồng trên áo, và anh sẽ tự hào được còn mẹ. Còn nếu anh mất mẹ, anh sẽ được cài trên áo một bông hoa trắng.

Tôi nhìn lại bông hoa trắng trên áo mà bỗng thấy tủi thân. Tôi cũng mồ côi như bất cứ một đứa trẻ vô phúc, chúng tôi không có được cái tự hào được cài trên áo một bông hoa màu hồng. Người được hoa trắng sẽ thấy xót xa, nhớ thương không quên mẹ, dù người đã khuất. Người được hoa hồng sẽ thấy sung sướng nhớ rằng mình còn mẹ, và sẽ cố gắng để làm vui lòng mẹ, kẻo một mai người khuất núi có khóc than cũng không còn kịp nữa. Tôi thấy cái tục cài hoa đó đẹp và nghĩ rằng mình có thể bắt chước áp dụng trong ngày báo hiếu Vu Lan.

Mẹ là một dòng suối, một kho tàng vô tận, vậy mà lắm lúc ta không biết, để lãng phí một cách oan uổng. Mẹ là một món qùa lớn nhất mà cuộc đời tặng cho ta, những kẻ đã và đang có mẹ. Đừng có đợi đến khi mẹ chết rồi mới nói: “trời ơi, tôi sống bên mẹ suốt mấy mươi năm trời mà chưa có lúc nào nhìn kỹ được mặt mẹ!”. Lúc nào cũng chỉ nhìn thoáng qua. Trao đổi vài câu ngắn ngủi. Xin tiền ăn quà. Đòi hỏi mọi chuyện. Ôm mẹ mà ngủ cho ấm. Giận dỗi. Hờn lẫy. Gây bao nhiêu chuyện rắc rối cho mẹ phải lo lắng, ốm mòn, thức khuya dậy sớm vì con. Chết sớm cũng vì con. Để mẹ phải suốt đời bếp núc, vá may, giặt rửa, dọn dẹp. Và để mình bận rộn suốt đời lên xuống ra vào lợi danh. Mẹ không có thì giờ nhìn kỹ con. Và con không có thì giờ nhìn kỹ mẹ. Để khi mẹ mất mình có cảm nghĩ: “Thật như là mình chưa bao giờ có ý thức rằng mình có mẹ!”

Chiều nay khi đi học về, hoặc khi đi làm việc ở sở về, em hãy vào phòng mẹ với một nụ cười thật trầm lặng và thật bền. Em sẽ ngồi xuống bên mẹ. Sẽ bắt mẹ dừng kim chỉ, mà đừng nói năng chi. Rồi em sẽ nhìn mẹ thật lâu, thật kỹ để trông thấy mẹ và để biết rằng mẹ đang còn sống và đang ngồi bên em. Cầm tay mẹ, em sẽ hỏi một câu ngắn làm mẹ chú ý. Em hỏi: ” Mẹ ơi, mẹ có biết không ?” Mẹ sẽ hơi ngạc nhiên và sẽ hỏi em, vừa hỏi vừa cười “Biết gì?” Vẫn nhìn vào mắt mẹ, vẫn giữ nụ cười trầm lặng và bền, em sẽ nói: “Mẹ có biết là con thương mẹ không ?” Câu hỏi sẽ không cần được trả lời. Cho dù người lớn ba bốn mươi tuổi người cũng có thể hỏi một câu như thế, bởi vì người là con của mẹ. Mẹ và em sẽ sung sướng, sẽ sống trong tình thương bất diệt. Mẹ và em sẽ đều trở thành bất diệt và ngày mai, mẹ mất, em sẽ không hối hận, đau lòng.

Ngày Vu Lan ta nghe giảng và đọc sách nói về ngài Mục Kiền Liên và về sự hiếu đễ. Công cha, nghĩa mẹ. Bổn phận làm con. Ta lạy Phật cầu cho mẹ sống lâu. Hoặc lạy mười phương Tăng chú nguyện cho mẹ được tiêu diêu nơi cực lạc, nếu mẹ đã mất. Con mà không có hiếu là con bỏ đi. Nhưng hiếu thì cũng do tình thương mà có; không có tình thương hiếu chỉ là giả tạo, khô khan, vụng về, cố gắng mệt nhọc. Mà có tình thương là có đủ rồi. Cần chi nói đến bổn phận. Thương mẹ, như vậy là đủ. Mà thương mẹ không phải là một bổn phận.

Thương mẹ là một cái gì rất tự nhiên. Như khát thì uống nước. Con thì phải có mẹ, phải thương mẹ. Chữ phải đây không phải là luân lý, là bổn phận. Phải đây là lý đương nhiên. Con thì đương nhiên thương mẹ, cũng như khát thì đương nhiên tìm nước uống. Mẹ thương con, nên con thương mẹ con cần mẹ, mẹ cần con. Nếu mẹ không cần con, con không cần mẹ, thì đó không phải là mẹ là con. Đó là lạm dụng danh từ mẹ con. Ngày xưa thầy giáo hỏi rằng: “Con mà thương mẹ thì phải làm thế nào?” Tôi trả lời: “Vâng lời, cố gắng, giúp đỡ, phụng dưỡng lúc mẹ về già và thờ phụng khi mẹ khuất núi”. Bây giờ thì tôi biết rằng: Con thương mẹ thì không phải “làm thế nào” gì hết. Cứ thương mẹ, thế là đủ lắm rồi, đủ hết rồi, cần chi phải hỏi ” làm thế nào ” nữa!

Thương mẹ không phải là một vấn đề luân lý đạo đức. Anh mà nghĩ rằng tôi viết bài này để khuyên anh về luân lý đạo đức là anh lầm. Thương mẹ là một vấn đề hưởng thụ.Mẹ như suối ngọt, như đường mía lau, như xôi nếp một. Anh không hưởng thụ thì uổng cho anh. Chị không hưởng thụ thì thiệt hại cho chị. Tôi chỉ cảnh cáo cho anh chị biết mà thôi. Để mai này anh chị đừng có than thở rằng: Đời ta không còn gì cả. Một món quà như mẹ mà còn không vừa ý thì họa chăng có làm Ngọc hoàng Thượng đế mới vừa ý, mới bằng lòng, mới sung sướng. Nhưng tôi biết Ngọc hoàng không sung sướng đâu, bởi Ngọc hoàng là đấng tự sinh, không bao giờ có diễm phúc có được một bà mẹ.

Tôi kể chuyện này, anh đừng nói tôi khờ dại. Đáng nhẽ chị tôi không đi lấy chồng, và tôi, tôi không nên đi tu mới phải. Chúng tôi bỏ mẹ mà đi, người thì theo cuộc đời mới bên cạnh người con trai thương yêu, người thì đi theo lý tưởng đạo đức mình say mê và tôn thờ. Ngày chị tôi đi lấy chồng, mẹ tôi lo lắng lăng xăng, không tỏ vẻ buồn bã chi.

Nhưng đến khi chúng tôi ăn cơm trong phòng, ăn qua loa để đợi giờ rước dâu, thì mẹ tôi không nuốt được miếng nào. Mẹ nói: “Mười tám năm trời nó ngồi ăn cơm với mình, bây giờ nó ăn bữa cuối cùng rồi thì nó sẽ đi ăn ở một nhà khác”. Chị tôi gục đầu xuống mâm khóc. Chị nói: “Thôi con không lấy chồng nữa”. Nhưng rốt cuộc thì chị cũng đi lấy chồng. Còn tôi thì bỏ mẹ mà đi tu. “Cắt ái từ sở thân” là lời khen ngợi người có chí xuất gia. Tôi không tự hào chi về lời khen đó cả. Tôi thương mẹ, nhưng tôi có lý tưởng, vì vậy phải xa mẹ. Thiệt thòi cho tôi, có thế thôi. Ở trên đời, có nhiều khi ta phải chọn lựa. Mà không có sự chọn lựa nào mà không khổ đau. Anh không thể bắt cá hai tay. Chỉ khổ là vì muốn làm người nên anh phải khổ đau. Tôi không hối hận vì bỏ mẹ đi tu nhưng tôi tiếc và thương cho tôi vô phúc thiệt thòi nên không được hưởng thụ tất cả kho tàng qúi báu đó. Mỗi buổi chiều lạy Phật, tôi cầu nguyện cho mẹ. Nhưng tôi không được ăn chuối ba hương, xôi nếp một và đường mía lau.

Anh cũng đừng tưởng tôi khuyên anh: “Không nên đuổi theo sự nghiệp mà chỉ nên ở nhà với mẹ!”. Tôi đã nói là tôi không khuyên răn gì hết — tôi không giảng luân lý đạo đức– rồi mà! Tôi chỉ nhắc anh: “Mẹ là chuối, là xôi, là đường, là mật, là ngọt ngào, là tình thương“. Để chị đừng quên, để em đừng quên. Quên là một lỗi lớn : Cũng không phải là lỗi nữa, mà là một sự thiệt thòi. Mà tôi không muốn anh chị thiệt thòi, khờ dại mà bị thiệt thòi. Tôi xin cài vào túi áo anh một bông hoa hồng: để anh sung sướng, thế thôi.

Nếu có khuyên, thì tôi sẽ khuyên anh, như thế này. Chiều nay, khi đi học hoặc đi làm về, anh hãy vào phòng mẹ với một nụ cười thật trầm lặng và bền. Anh sẽ ngồi xuống bên mẹ. Sẽ bắt mẹ dừng kim chỉ, mà đừng nói năng chi. Rồi anh sẽ nhìn mẹ thật lâu, thật kỹ, để trông thấy mẹvà để biết rằng mẹ đang sống và đang ngồi bên anh. Cầm tay mẹ, anh sẽ hỏi một câu ngắn làm mẹ chú ý. Anh hỏi: “Mẹ ơi, mẹ có biết không?” Mẹ sẽ hơi ngạc nhiên và sẽ nhìn anh, vừa cười vừa hỏi: “Biết gì?” Vẫn nhìn vào mắt mẹ, giữ nụ cười trầm lặng và bền, anh sẽ hỏi tiếp: “Mẹ có biết là con thương mẹ không?” Câu hỏi sẽ không cần được trả lời. Cho dù anh lớn ba bốn mươi tuổi, chị lớn ba bốn mươi tuổi, thì anh cũng hỏi một câu ấy. Bởi vì anh, bởi vì chị, bởi vì em là con của mẹ. Mẹ và anh sẽ sung sướng, sẽ sống trong tình thương bất diệt. Và ngày mai mất mẹ, Anh sẽ không hối hận, đau lòng , tiếc rằng anh không có mẹ.

Đó là điệp khúc tôi muốn ca hát cho anh nghe hôm nay. Và anh hãy ca, chị hãy ca cho cuộc đời đừng chìm trong vô tâm, quên lãng. Đóa hoa mầu hồng tôi cài trên áo anh rồi đó. Anh hãy sung sướng đi.

Nhất Hạnh (1962)

Source: thuvienhoasen

Chuyển đến trang:  1  2  3  4  5  6