SỰ TÍCH ĐỨC DI LẶC BỒ TÁT 2

Recent Pages:  1  2  2a 2b 3  4  5  5a   6  8  9  10 11 12

Lược Ý Hình Tượng Đức Phật Di Lặc Trong Ý Niệm
Mùa Xuân Phật Giáo Bắc Truyền

Thích Tâm Mãn

Xuân là tương lai, Xuân đem đến cho nhân gian bao điều hy vọng, Xuân đem đến cho cuộc đời những ước nguyện ngày sau, Xuân là hoa, là nắng hồng ấm áp, là nụ cười, là sức sống mới vươn lên, xuân là tháng ngày bình yên và hạnh phúc, là thương yêu của vĩnh hằng gửi đến nhân gian. Cho nên thế gian khi xuân đến người người đều chào đón, vui như tết nên mở hội, nên đón Xuân.

Phật Giáo truyền đến Đông Phương như gió xuân đưa ấm nồng vào mùa đông rét buốt, tín ngưỡng Tịnh Độ của Phật Giáo Bắc Truyền như niềm hy vọng mới cho những dân tộc ảnh hưởng nền văn hóa lễ giáo Nho Gia. Trung Quốc từ thời Bàng cổ, Nghiêu, Thuấn, cho đến Hạ, Thương, Chu rồi Chiến Quốc, Xuân Thu, Tần, Hán. Việt Nam từ họ Hồng Bàng đến Hùng Vương, Âu Lạc. Đất nước luôn biến động, chiến tranh liên miên, xã hội loạn lạc, nhân dân đồ thán, không có lấy một ngày bình yên, Phật Giáo truyền vào Đông Phương làm cho tinh thần người nhân dân bản địa như có nơi nương tựa, Tín ngưỡng cầu sanh về Tịnh độ của Phật Giáo Bắc Truyền như cho nhân dân ở xứ sở này, có một niềm hy vọng mới và nơi ký thác cuộc đời mình về một thế giới yên bình và tốt đẹp hơn.

Nói đến Tịnh Độ mọi người liền nghĩ đến pháp môn Niệm Phật cầu sanh về cảnh giới Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà. Nhưng thật ra ngoài pháp môn niệm Phật vãng sanh Tây Phương Tịnh Độ A Di Đà ra còn có Pháp Môn tu hành cầu sanh Tịnh Độ là Đâu Xuất Thiên Cung nơi có Đức Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật đang thuyết Pháp độ sanh và đợi đến ngày hạ sanh xuống trần gian thay thế cho Đức Phật Thích Ca làm Phật Giáo chủ cõi Ta Bà, giáo hóa chúng sanh.

Trong Kinh Di Lặc Thượng Sanh và Kinh Di Lặc Hạ Sanh đều có chép về Đức Di Lặc: “Đức Bồ Tát có họ là Di Lặc tên là Từ Thị, thuộc dòng dõi Bà La Môn, sau xuất gia làm đệ tử của Đức Thích Ca, trước khi Đức Thích Ca nhập diệt, sanh lên cung trời Đâu Xuất. Sau này khi Đức Thích Ca nhập diệt, trãi qua 56 ức 7000 vạn năm, Đức Di Lặc Bồ Tát từ thiên cung hạ sanh xuống phàm trần, tại vườn Hoa Lâm dưới cây Long Hoa thành Phật, giáo hóa giải thoát chúng sanh.”.

Trong Kinh Đại Thừa Tâm Địa Quán có đọan nói về Đức Di Lặc Bồ Tát rằng: “Di Lặc Bồ Tát Là con của Bậc Pháp Vương, từ khi phát tâm vì muốn kết duyên lành hóa độ hết thảy chúng sanh, nên không ăn thịt, vì nhân duyên đó mà có tên là Từ Thị. Đức Phật trong điện Như Ý có 49 tầng trên cung trời Đâu Xuất, ngày đêm thuyết Pháp bất thối, dùng vô số phương tiện độ trời người…tất cả những ai có duyên đều được độ..”.

Trong Kinh Phật Thuyết Từ Thị Bồ Tát Thệ Nguyện Đà La Ni chép: “Bấy giờ Bồ tát Từ Thị lại phát lời thệ nguyện. Sau này vào thời mạt pháp, nếu có chúng sanh nào, có thể đọc tụng thọ trì, cho đến những người túc nghiệp phải đọa vào A Tỳ địa ngục, khi tôi thành Phật, nguyện dùng Phật lực mà cứu ra khỏi địa ngục, còn thọ ký cho quả vị A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.”

Đức Di Lặc Bồ Tát là vị đệ tử được Đức Phật truyền Y và thọ ký trong tương lai, kế thế ngôi vị của Đức Thích Ca Mâu Ni làm giáo chủ cõi Ta Bà. Trong Kinh Tăng Nhất A Hàm chép: “Thế Tôn bảo Ca Diếp không nên vội Niết Bàn, mà nên chờ Di Lặc ra đời..”. Trong sách Truyền Đăng Lục chương Thích Ca Mâu Ni Phật chép: “Đức Phật bảo ngài Ca Diếp: Ta đem Y Kim Lâu Tăng Già Lê này tuyền cho Ông, khi Phật Từ Thị ra đời, Ông nên truyền lại cho vị Phật đã được bổ xứ, chớ để làm cho hư nát…Ngài Ca Diếp đem y Tăng Già Lê vào núi Kê Túc nhập định chờ đức Di Lặc Từ Thị hạ sanh…”. Trong sách Tây Vực Ký Bộ Ma Kiệt Đà Quốc chép: “Phật dạy Ngài Ca Diếp: Nay ta vào Niết Bàn đem chư Pháp Tạng phú chúc cho ông…Y Kim Lâu Ca Sa do Di Mẫu cúng dường, ông nên giữ lại, truyền cho Từ Thị khi thành Phật…”.

Tín ngưỡng tu hành cầu sanh về Tịnh Độ của Phật Di Lặc là Đâu Xuất Thiên Cung, được truyền vào Đông phương khoảng thời Lưỡng Tấn Trung Quốc (T.L 310), Ngài Đạo An Đại Sư đời Đông Tấn (T.L.312-385) là người khởi xướng và hành trì Pháp môn cầu sanh Tịnh Độ của Phật Di Lặc, Ngài đã từng cùng đệ tử là Ngài Pháp Ngụ và tám người khác ở trước tượng của Đức Phật Di Lặc phát nguyện vãng sanh về Tịnh Độ Đâu Xuất Thiên Cung, Ngài còn trước tác và sớ giải các tác phẩm về Tịnh Độ Pháp Môn như “Vãng Sanh Luận” và “Tịnh Độ Luận”.

Từ đó tín ngưỡng Tịnh Độ của Phật Di Lặc được phổ biến trong dân gian. Đến đời Tống thuộc thời kỳ Nam Bắc Triều (T.L 431) niên hiệu Nguyên Gia thứ 8 có Tỳ Kheo Ni Đạo Quỳnh tạo rất nhiều hình tượng của Bồ Tát Di Lặc, thờ phụng ở khắp nơi, trong đó việc tạo hình tượng Phật Di Lặc tại chùa Ngõa Quan được sử sách ghi lại sớm nhất. Năm Thái Hòa thứ 22 (T.L 498) có Cao Sở tạo tượng Di Lặc ở Thạch quật Vân Cương. Năm Cảnh Minh 4 (T L503) có Tỳ Kheo Hệu Lạc tạo tượng Phật Di Lặc cầu nguyện cho Bắc Hải Vương Nguyên Tường.v.v.. qua đó chúng ta nhận thấy rằng tín ngưỡng Phật Di Lặc ở Đông Phương đến thế kỷ thứ 5 đã hòan toàn phổ biến và hưng thịnh.

Tín ngưỡng Tịnh Độ Phật Di Lặc được người dân bản địa Đông Phương chấp nhận một cách nhanh chóng, và sự phổ cập của tín ngưỡng này vào mọi tầng lớp trong dân gian một cách sâu rộng, một phần cũng do sự ảnh hưởng của xã hội và lịch sử lúc bấy giờ. Cuối đời nhà Hán đất nước Trung quốc chia ra làm 3 nước là Ngụy, Thục, Ngô, nước Việt Nam ta lúc bấy giờ thuộc quyền cai trị của nhà Đông Ngô gọi là Giao Châu. Sau đến nhà Lưỡng Tấn rồi Nam Bắc Triều, 10 nước. v.v… vương triều bao cuộc thay ngôi đổi chủ, đất nước mấy phen dựng lập rồi lại phế, chiến tranh liên miên, giặc dã nỗi dậy ở khắp nơi, thiên tai dịch bịnh hoành hành, dân chúng không có được ngày bình yên, cuộc sống trăm bề cơ cực, lòng người hoang mang không nơi gửi thác.

Thời kỳ đầu Tín ngưỡng Tịnh Độ Phật Di Lặc là “Di Lặc Thượng Sanh” cầu sanh lên Đâu Xuất thiên cung để nghe kinh giải thoát, sự ra đời của ý niệm này đem lại cho mọi người một niềm tin mới, một hy vọng về ngày mai tốt đẹp và an lành hơn. Vì vậy mọi người nương theo lời Phật dạy trong Kinh Di Lặc Thượng Sanh mà phát tâm quy ngưỡng Đức Di Lặc, trong Kinh Phật dạy: “Nếu như có người quy y Tam Bảo, thành tâm hướng thượng, đều có thể sanh sang thế giới Tịnh Độ của Đức Phật Di Lặc, trừ được 100 ức tội nghiệp của sanh tử…”

Nói về cảnh giới phước báo trang nghiêm cũng như thù thắng, trong kinh dạy: “Thế Giới Đâu Xuất có tám dòng nước lớn bằng lưu ly phóng ánh quang minh, trang trí cho mỗi dòng nước hai bên có 500 ức bảo châu hợp thành…ở bốn cổng vào hóa ra những hoa lớn, trên mỗi đóa hoa có 24 vị thiên nữ, thân hình đẹp đẽ vi diệu, vai trai bận áo hoa sen trang sức vô số anh lạc, vai phải đeo vô số nhạc khí, như mây giữa hư không, như dưới nước mà đi lên vậy. Nếu như ai được vãng sanh lên cỏi trời Đấu Xuất, tự nhiên đều được các vị thiên nữ hộ trì.. trong cảnh giới lạc viên thiên đàn Đức Phật Di Lặc vì nhơn thiên mà thuyết pháp đại thừa, giải hết phiền não khổ đâu cho mọi người..”

Khi Tín ngưỡng Tịnh Độ của Đức Phật Di Lặc phát triển và phổ biến, thì tư tưởng “Di Lặc Hạ Sanh” bắc đầu hưng thạnh. Đến đời Bắc Ngụy thì tư tưởng “Di Lặc Hạ Sanh” hòan toàn thay thế cho tư tưởng “Di Lặc Thượng Sanh” của thời kỳ đầu. Tư tưởng Di Lặc hạ sanh xuống nhân gian dựa theo tin thần của Kinh Di Lặc Hạ Sanh và Kinh Pháp Diệt Tận. Trong Kinh Pháp Diệt Tận Phật dạy: “Di Lặc hạ sanh xuống thế gian làm Phật, thiên hạ thái bình, khí độc tiêu hết, mưa hòa gió thuận, ngũ cốc xanh tốt, cây cối tốt tươi. Dân chúng người người cao lớn đến 8 trượng, sống lâu đến 8 vạn 4000 tuổi. chúng sanh được Ngài độ, số không thể kể hết.” được mọi người đón nhận, vì tính chất gần với tư tưởng xây dựng cảnh giới Nhân Gian Tịnh Độ giữa cuộc đời khổ đau của Phật Giáo Bắc Truyền. đồng thời cũng thích hợp với lối tư duy “ Thế Ngoại Đào Viên” của các dân tộc Đông Phương chịu sự ảnh hưởng truyền thống văn hóa huyền học Đạo Gia.

Tín ngưỡng Tịnh Độ Phật Di Lặc, đi theo đó là sự xuất hiện phổ biến của hình tượng đức Phật Di Lặc trong sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo của Phật Giáo Bắc Truyền cũng như dân gian. Hình tượng Đức Phật Di Lặc được tạo căn cứ theo Kinh Di Lặc Hạ Sanh, hình tướng vô lượng trang nghiêm, ngồi trong tư thế hai chân giao nhau, từ bi diện mục, đây là hình tướng ban đầu của Bồ Tát Di Lặc trong nghệ thuật điêu khắc Phật tượng của Phật Giáo Bắc Truyền, thể loại hình tượng Bồ Tát ngồi hai chân giao nhau này, nay còn ở Động Đôn Hoàng. Đến đời Thạnh Đường tượng Bồ Tát Di Lặc xuất hiện thêm một hình tướng nữa, đó là tượng Bồ tát ngồi thả hai chân không còn giao nhau như những tượng Bồ Tát ban đầu. Đến đời Tống sự xuất hiện của Bố Đại Hòa Thượng, hình tượng Đức Di Lặc Bồ tát hoàn toàn được Đông Phương hóa, có hình dáng của một vị Hòa Thượng Thiền Sư của Phật Giáo Bắc Truyền, tùy duyên, tự tại, giai đại hoan hỷ.

Niềm tin có một ngày Đức Bồ Tát Di Lặc hạ sanh xuống nhân gian để hóa độ chúng sanh theo lời Phật dạy trong Kinh Di Lặc Hạ Sanh Thành Phật là tác nhân chính ung đúc cho hình tượng Bố Đại Hòa Thượng Di Lặc ra đời, đồng thời tinh thần hình tướng của Đức Di Lặc Bồ Tát được Kinh A Hàm quyển trung mô tả: “Hình tướng Di Lặc Bồ Tát thường không cố định, có thời là tướng Tỳ Kheo, có khi là tướng Bồ Tát…đôi khi còn có hình tướng của Bạch Y…” cùng với văn hóa Thiền Tông phát triển và thịnh hành vào thời Đường, Tống hình tượng nhập thế của Đức Di Lặc Bồ Tát với nét đặc trưng một vị Thiền Sư bụng to, má sệ, nụ cười tươi như hoa nở, thể hiện đầy đủ tính chất tùy duyên của Phật Giáo Bắc Truyền được đản sanh, và rất mau chóng hòa nhập vào đời sống văn hóa truyền thống và tính ngưỡng dân gian của người Đông Phương cũng như Phật Giáo Bắc Truyền.

Bố Đại Hòa Thượng là ai? vì sao được xưng là Bồ Tát Di Lặc? Trong sách “Cảnh Đức Truyền Đăng Lục” sách “Ngũ Đăng Hội Nguyên” sách “Minh Châu Cảm Ứng Đại Sư Bố Đại Hòa Thượng Truyện”. v.v… đều có ghi chép về sự tích của Ngài. Theo Sách Cảnh Đức Truyền Đăng Lục thời Tống (1004) chép: “Quê ở Minh Châu, huyện Phụng Hóa. Không ai rõ tên họ Ngài là gì, chỉ biết Ngài tự xưng mình là Khiết Thử, mọi người thường gọi là Bố Đại Hòa Thượng, nghĩa là Hòa Thượng Túi Vải.

Tướng người mập mạp, trán hẹp, bụng lớn. Nói năng vô định, ngủ thì tùy chỗ; thường dùng một cây gậy, quảy một cái túi vải, hễ ai cúng cho món gì, Ngài bỏ cả vào trong túi. Vào chợ, vào xóm, thấy cái gì là xin cái đó, bất kể cá ương hay rau thúi. Xin được, bỏ vào miệng; còn lại thì bỏ vào túi. Người thời bấy giờ gọi là “Trường Đinh Tử Bố Đại Sư”, tức là “ông sư túi vải cây đinh dài”.

Có lần Ngài nằm trong tuyết, mà tuyết không thấm ướt đến mình. Người ta thấy thế cho rằng Ngài là một nhân vật kỳ lạ. Nếu Ngài đến xin hàng bán của ai, hàng đó nhất định sẽ bán chạy. Trời sắp sửa mưa, chắc chắn người ta sẽ thấy Ngài mang đôi guốc gỗ đẫm ướt đi bương bã trên đường. Lúc trời hứa hẹn một ngày nắng ráo, người ta thấy Ngài treo cao đôi guốc gỗ trên cầu, nằm co chân mà ngủ. Cư dân lấy đó mà nghiệm thì có thể biết thời tiết sẽ tới. Cuộc đời Ngài để lại một số giai thoại đầy ẩn ngữ.

Một thầy Tăng đi phía trước Ngài. Ngài chạy tới vỗ vào lưng. Thầy Tăng quay đầu lại, Ngài nói: -Cho xin một quan tiền. Thầy Tăng trả lời: – Nói được thì tôi cho Ngài một quan tiền ngay. Ngài bỏ túi xuống, khoanh tay đứng.

Lần nọ, Hòa Thượng Bạch Lộc hỏi Ngài: – Túi Vải (Bố Đại) là thế nào? Ngài bỏ túi vải xuống. Hòa Thượng Bạch Lộc lại hỏi nữa: – Cái việc của túi vải là thế nào? Ngài quảy lên vai mà đi.

Lần khác, Hòa Thượng Tiên Bảo Phúc hỏi: – Chỗ cốt yếu của Phật Pháp là thế nào? Ngài bỏ túi vải xuống, khoanh tay đứng. Bảo Phúc nói: – Chỉ có vậy, hay có cái gì khác hơn nữa? Ngài liền quảy lên vai mà đi.

Có một lần Ngài đứng giữa ngã tư, một thầy Tăng hỏi: – Hòa Thượng làm gì ở đó? – Ngài đáp: – Đợi một người. – Đến rồi! Đến rồi!; – Ông không phải là người đó; – Ngài đó thế nào?; – Cho xin một quan tiền.

Đời Lương, niên hiệu Trinh Minh thứ hai, năm Bính Tý, tháng Ba , trước khi thị tịch, Ngài có nói bài kệ:

Di Lặc chân Di Lặc

Phân thân thiên bách ức

Thời thời thị thời nhơn

Thời nhơn tự bất thức

Di Lặc thật Di Lặc

Trăm nghìn ức hóa thân

Hiện thân chỉ cho người

Tự người đời không biết

Nói kệ xong, Ngài yên lành mà tịch. Về sau, ở châu khác, có người cũng thấy Ngài mang túi vải mà đi. Nhân đó, người ta mới tranh nhau vẽ tượng Ngài. Toàn thân của Ngài cho tới đời nhà Tống, còn được thấy tại chùa Nhạc Lâm.”. Với những kỳ tích và đạo hạnh cũng như Thiền tư của Ngài, cộng thêm bài kệ thị tịch, Bố Đại Hòa Thượng được Phật Giáo cũng như đại đa số quần chúng trong dân gian tín ngưỡng và lưu truyền, dần dần hình tượng của Ngài được Phật hóa thành hình tượng của Đức Phật Di Lặc trong tương lai, theo quan niệm truyền thống thần thánh dân gian Đông phương, cũng như tư tưởng “ Đại Thừa Ứng Thân” của Phật Giáo Bắc Truyền.

Hình tượng của Đức Phật Di Lặc hoàn toàn được Đông Phương hóa qua hình tướng của Bố Đại Hòa Thượng là điểm cuối cùng của quá trình Đông Phương hóa hình tượng Di Lặc Bồ Tát, vì trước Bồ Đại Hòa Thượng từ nhận mình là hóa thân của Bồ Tát Từ Thị, thì cũng rất là nhiều nhân vật nổi tiếng của Phật Giáo Bắc Truyền cũng tự nhận mình là hóa thân của Bồ Tát Di Lặc như Tống Tử Hiền đời Tùy và Võ Tắc Thiên đời Đường. Qua hiện tượng này thể hiện rõ sự trưởng thành và phát triển mạnh mẽ của Phật Giáo Bắc Truyền về hình tướng cũng như triết lý, hàm ý tính chất độc lập, lập tông của tư tưởng “Tức Tâm Tức Phật” của Thiền Gia và làm sáng ngôn luận “Tâm Phật Chúng Sanh, tam vô sai biệt”.

Tinh Thần “Thánh Phàm Bình Đẳng” của Đại Thừa Bắc Truyền Phật Giáo được thể hiện hết sức sinh động qua hình tượng của Phật Di Lặc Bố Đại Hòa Thượng. Đức Bồ Tát Di Lặc nơi Thiên Cung, với 32 tướng cụ túc, 80 vẽ đẹp trang nghiêm, nhưng khi ứng thân vào đời bằng hình hài của một vị Hòa Thượng mật mạp, bụng to, áo quần xốc sết, nhưng miệng thì luôn điểm một nụ cười, làm cho mọi người đều có thể gần gủi và thân mật. Đại Thừa là thế vì muốn đem đạo vào đời, vì người là Phật, Phật cũng là người nên đâu có cách ngăn.

Lại nữa Bố Đại Hòa Thượng Ngài thường chỉ vào cái bao chứa hết thảy những gì xin được của mình bất cứ là dơ hay sạch của mình mà nói: “ Đây là Nội Viện của Di Lặc” chỉ cho ta một hàm ý nội viện của Bồ Tát Di Lặc ở cung Đâu Xuất Đà cũng không khác gì với cõi Ta Bà ở trần thế, bất cứ như nơi nào nếu như “không còn thấy dơ sạch hay ô nhiễm nữa đó là Tây Phương, không khổ não không ưu phiền đúng là Tịnh Độ” tư tưởng “Nhất Trần Bất Nhiễm” của Đại Thừa Viên Đốn như viên mãn ở nơi đây.

Đại Thừa Bồ Tát Đạo lấy Lục Độ Ba La Mật làm tiêu tướng để tu hành, Nhẫn nhục là Pháp tu không thể thiếu, tinh thần nhẫn nhục của Phật Giáo Đại Thừa vô cùng vô tận cho nên bụng của Bố Đại Hòa Thượng là to nhất trong lục căn, vì vậy người đời khi viết đối liễn tán thán Đức Phật Di Lặc không bao giờ họ quên tán thán cái bụng của Ngài “Đại tu năng dung, dung thiên hạ nan dung chi sự” bụng lớn chứa hết, những gì đời không thể chứa được. Hay là “ Đại Tu Năng dung, dung thiên dung đia, vu sự hữu hà bất dung” bụng to chứa hết, chứa trời chứa đất, không có việc gì mà không thể chứa.

Bồ Tát nhẫn nhục, nhẫn những điều mà chúng sanh không nhẫn được, nhẫn không phải vì mình vô năng hay khiếp nhược, mà nhẫn trong tình thương từ bi vô hạn của Phật, Nhẫn trong tính vô úy hòa diệu của chí khí trượng phu. Kiến giải không đồng, tâm lượng sai khác, lòng từ tế độ quần sanh, nên người có chí Đại Thừa cần một tâm lượng rộng lớn mói có thể độ sanh, cho nên trong văn hóa của người Đông Phương có câu “Hải nạp bách xuyên” biển lớn chứa hết nước của trăm sông. “Đại Thừa Pháp Hải” cũng như thế nên bụng của Đức Phật trong tương lai cần nên lớn như thế.

Hoan hỷ lạc quan là cốt cách của một con người luôn hướng đến tương lai, và tin vào một ngày mai tốt đẹp, đây là tinh thần cốt lõi của Phật Giáo Đại Thừa khi nói về tương lai. Khi con người bỏ xác thân để trở thành quá khứ, thì Đạo Phật tất cả quá khứ là nguồn cội của tương lai, nên Đức Di Đà mới tiếp dẫn chúng sinh về một tương lai mới, mà lúc nào cảnh giới mới mà Phật Giáo đưa ra cũng tốt đẹp hơn trước.

Trong cảnh giới hiện sinh thì Đức Phật Di Lặc của tương lai luôn mĩm cười, nụ cười của Đức Di Lặc, cười buôn bỏ hết tất cả phiền muộn, cười để lạc quan hơn trong cuộc đời lắm nỗi trái ngang. Cười để hiểu đang chờ ta là một tương lai vô cùng tốt đẹp, vì thế nên Đức Di Lặc luôn tươi cười để an ủi nhân sinh. Nụ cười của Đức Di Lặc được ví như mùa xuân hay những gì vui nhất, nếu cười được như Ngài thì ngày thành Phật không xa, cho nên câu đối nào nói về Ngài mọi người đều không quên nhắc về nụ cười của Ngài “Khai Khẩu tiện tiếu, tiếu cổ kim, phàm sự phó chi tiếu”mở miệng tươi cười, cười chuyện xưa nay, mọi việc chỉ cần cười là xong hết. Hay câu “Khai khẩu tiện tiếu, tiếu thế gian khả tiếu chi nhân” mở miệng tươi cười, cười thế gian sao nhiều người đáng cười.

Hình tượng Bố Đại Hoà Thượng là hiện thân của Đức Bồ Tát Di Lặc được tôn thờ trong dân gian bắt đầu từ đời Tống được lưu truyền rộng rãi, chính thức được tôn thờ trong tự viện Phật Giáo Bắc Truyền, cũng như được Tăng lữ Phật Giáo Bắc truyền chính thức công nhận phải đến thời nhà Minh, theo sách Pháp Uyển Đàm Tùng và sách Trung Quốc Phật Giáo Mạn Đàm cũng như sách Đế Vương Dử Phật Giáo đều cho rằng vào cuối thời nhà Nguyên những cuộc khởi nghĩa của nông dân Trung Quốc chống lại triều đình nổi dậy khắp nơi, trong đó có nhiều cuộc khởi nghĩa lấy hiệu triệu thiết lập một “Thế giới mới”.

Bấy giờ ở Phụng Hóa quê hương của Bố Đại Hòa Thượng xuất hiện một đạo mới Di Lặc Giáo và đạo này với khẩu hiệu “Tân Phật xuất thế, trừ khử chúng ma” làm khẩu hiệu, hiệu triệu nông dân đứng lên khởi nghĩa chống lại nhà Nguyên Mông. Sau khi cuộc khởi nghĩa nông dân dưới sự lãnh đạo của Chu Nguyên Chương thành công lập nên nhà Minh, vì là người xuất thân từ chùa nên triều đình nhà Minh ra lịnh tất cả các tự viện trong toàn quốc, trong Thiên Vương điện thờ Đức Phật Di Lặc đều phải dùng đức tướng của Bố Đại Hòa Thượng là hóa thân Phật để phụng thờ, từ đó hình tượng Bố Đại Hòa Thượng thay thế cho hình tượng của Bồ Tát Di Lặc trong tự viện Phật Giáo Bắc Truyền và được Tăng Tín Đồ Phật Giáo chính thức công nhận hình tượng Bố Đại Hòa Thượng là hóa thân của Bồ Tát Di Lặc.

Đức Phật Di Lặc, Phật của tương lai theo tin thần của Kinh Pháp Diệt Tận Phật dạy: “Di Lặc hạ sanh xuống thế gian làm Phật, thiên hạ thái bình, khí độc tiêu hết, mưa hòa gió thuận, ngũ cốc xanh tốt, cây cối tốt tươi. Dân chúng người người cao lớn đến 8 trượng, sống lâu đến 8 vạn 4000 tuổi. chúng sanh được ngài độ, số không thể kể hết.” chính vì nguyên nhân, mà tín đồ của Di Lặc Giáo cho rằng mùa Xuân là sự khởi đầu cho một năm mới, một hy vọng mới, một tương lai mới ước vọng một thế giới mới, cho nên lấy ngày mùng một tết là ngày vía của Đức Phật Di Lặc. Với những ý nghĩa như vậy nên mùa xuân của Đức Di Lặc ra đời và lưu truyền rông rãi trong dân gian, được mọi người đón nhận.

Trãi qua thời gian vì tính chất gần với tư tưởng xây dựng cảnh giới Nhân Gian Tịnh Độ giữa cuộc đời khổ đau của Phật Giáo Bắc Truyền. đồng thời cũng thích hợp với lối tư duy “Thế Ngoại Đào Viên” của các dân tộc Đông Phương chịu sự ảnh hưởng truyền thống văn hóa huyền học Đạo Gia, nên ngày xuân đến mọi người vui xuân cùng trời đất, đồng thời cũng vui xuân trong tâm niệm đón chờ ngày Đức Phật Di Lặc xuống trần cứu độ và hy vọng của một thế giới mới tốt đẹp hơn xuất hiện trên cõi đời “ Tịnh Độ Trong Thế Gian”, cho nên ngày xuân trở thành ngày tết quan trọng trong Phật Giáo Bắc Truyền.

Nguồn: Chùa Minh Thành
.

thu-mau-don-sept-21-2016

SỰ TÍCH ĐỨC DI LẶC BỒ TÁT

(ĐỜI KHÁC)

Hồi đời Lục Triều, Đức Di Lặc lại ứng tích làm phó Đại sĩ ở tại Chùa Song Lâm một thời kỳ nữa.

Khi Ngài ra mắt Lương Võ Đế, vua liền hỏi Ngài rằng: “Xin Đại sĩ cắt nghĩa cho quả nhơn nghe làm sao kêu là: Đạo?”

Ngài liền bạch rằng: “Tâm thiệt là Đạo”, tôi xin chứng nghiệm như vầy, thì bệ hạ đủ hiểu.

Khi bệ hạ chưa lên ngự tại điện này, trong tâm lúc ban đầu chưa khởi niệm, bổn trí vẫn tự nhiên mà được diệu tịnh quang huy, sáng suốt hiện buổi nay, rực rỡ đến thuở trước, và đầy lấp tất cả cõi Thái hư, cái tịnh quang ấy muôn đời không sanh, vĩnh kiếp không diệt, chẳng phải Thánh mà cũng chẳng phải Phàm, không thúc phược mà cũng không giải thoát.

Đó là tâm thể rất mầu nhiệm và rất vắng lặng. Ngoài cái tâm không có đạo gì riêng khác, và ngoài đạo cũng không có tâm nào phân biệt nữa, vì thế cho nên mới gọi: “tâm là đạo”.

Vua Võ Đế lại hỏi nữa rằng: “Vậy chớ Đại sĩ có tôn ai làm Thầy hay không?”

Ngài bạch rằng: “Thầy thì không có ai là Thầy của bần đạo, còn tôn thì bần đạo cũng không có tôn ai, đến việc tùng sự, thì cũng không có tùng sự với người nào cả”.

Vua Võ Đế nghe Ngài nói như vậy, thì biết là một vị Bồ Tát lâm phàm, nên càng tôn trọng Ngài một cách rất đặc biệt.

Đoạn Ngài lại thưa với Vua rằng: “Bệ hạ ngày nay mà đặng hưởng điều tôn vinh như vầy, nguyên nhân cũng là một vị Bồ Tát hạ trần mà cứu thế.

Vậy xin Bệ hạ phải mở thông ý địa, nên tự lượng nơi mình, tâm để cho thanh tịnh, đừng trước nhiễm vật gì, lấy đó làm căn bản, cần nhứt phải dùng chỗ hư linh làm cơ sở, lấy sự vô tướng làm nguyên nhơn, nguyện vọng chí thành cầu cho đạt tới chỗ Niết bàn mà làm cực quả.

Nếu bệ hạ thi thố những phương pháp trị quốc, thì phải dùng chánh pháp mà sửa trị trong thế gian, và thi hành những điều nhơn đức, đặng làm cho lê dân cảm hóa.

Trong triều thì trọng dụng những người hiền tài mà trừ khử mấy kẻ cưu lòng gian nịnh, còn ngoài thì thi nhơn chánh đến kẻ quan quả, cô độc, bỏ những hình phạt trừng trị nặng nề, và ban chánh lịnh cho có nghiêm minh trật tự. Nếu Bệ hạ trị vì trong thiên hạ, thi nhơn bố đức được như thế, thì kẻ xa người gần đều gội nhuần ơn đức vô cùng vô tận. Chừng đó việc can qua phải dứt, mà trong đội ngũ lại ninh bình, thì ngôi trời được hùng tráng mà an hưởng cuộc thái bình. Nếu chánh sách thi thố được công hiệu như thế, thì Bệ hạ thiên cơ đã thần diệu, lại còn nối ngôi quốc tổ được lâu dài nữa. Đó là bần đạo hi vọng sao cho Bệ hạ được như vậy”.

Có một ngày kia, ông Lưu Trung Thừa ngồi tại chỗ trạm dịch với Ngài, thoạt thấy có Thánh giá vừa đến, liền lật đật đứng dậy làm lễ, còn Ngài ngồi yên lặng một chỗ.

Khi Thánh giá qua khỏi rồi, ông Lưu Trung Thừa bèn hỏi Ngài rằng: “Theo ý tôi tưởng, Ngài chẳng chịu làm tôi với Thiên tử, không muốn làm bạn với Chư hầu, cớ sao mà lại ngã mạn như vậy, xin Ngài nói cho tôi rõ”.

Ngài liền đáp rằng: “Để bần đạo giải cho ông rõ. Phàm việc kỉnh mà biểu lộ ra hình tướng, thì không có tánh kỉnh, còn bề ngoài chẳng cử động sự kỉnh về lễ nghe tham bái, thì thiệt trong tâm có ẩn điều kỉnh vô giá. Bần đạo thấy Thánh giá mà động thân, thì pháp địa tự nhiên cũng rúng động. Hễ pháp địa rúng động, thì tất cả các pháp cũng chẳng an nhẫn, nếu các pháp chẳng an nhẫn, tức là không có kỉnh, nên bần đạo vẫn ngồi tự nhiên là vậy đó”.

Ông Lưu Trung Thừa nghe Ngài nói như thế, thì rất kỉnh phục.

Vua Lương Võ Đế biết Ngài là một vị Bồ Tát tái lai, nên thiết lập một chỗ pháp hội rất nghiêm trang, rồi thỉnh Ngài lên diễn kinh cho bá tánh nghe.

Khi trần thiết xong rồi, Ngài lên ngồi trên pháp tòa, lẳng lặng làm thinh được giây phút, chớ không nói một lời chi cả.

Trong đám người đến nghe kinh đó, có một vị Thái tử thấy vậy mới hỏi Ngài rằng: “Thưa Ngài! Đáng lẽ chỗ Chư Thiên nhơn cưu hội đây, Ngài phải giảng giải cho mọi người rõ thấu lẽ chơn chánh của Phật, đặng nhờ đó mà tu học mới phải, cớ sao Ngài làm thinh mà không biện luận nghĩa lý chi, lại vội xuống pháp tọa như vậy ?”

Ngài liền trả lời rằng: “Phàm việc gì nói hay là nín, đều thuộc về Phật sự cả. Như thế có phải làm đúng theo Phật lý hay không? Vậy mà ông còn buộc tôi nói năng làm chi nữa”.

Thái tử nghe mấy lời bèn làm thinh, trong lòng càng khâm phục Ngài vô cùng.

Cách ít lâu, Ngài ra mắt vua, rồi quì xuống mà tâu rằng: “Muôn tâu bệ hạ! Bần đạo có như ý bửu châu và thanh tịnh giải thoát, chiếu diệu rõ rệt đến mười phương. Nếu Bệ hạ chịu thọ lãnh mấy vật ấy, thì có ngày sẽ chứng đến quả Bồ đề. Vả lại các pháp chẳng phải có, mà cũng chẳng phải không, phàm vật gì thuộc về hữu tình đồng quy nơi thiệt tế. Các việc trong thế gian đều là bức tranh huyễn hóa, rốt cuộc rồi hoàn về chỗ không, cũng ví như trăm sông tuy phân ra muôn dòng ngàn mạch, nhưng tóm lại cũng chảy về biển.

Pháp Thế gian và pháp Xuất thế gian cũng chẳng qua là lý chơn như. Vì lý chơn như thiệt không có sanh và không có diệt, nên không có Niết bàn, tam thế cũng bình đẳng, mười phương đều thanh tịnh. Nếu lấy phần thanh tịnh bình đẳng ấy làm sự nhiêu ích cho các giống hữu tình, thì được đồng lên bờ giác ngạn.

Nếu chỗ sắp đặt phương pháp đặng như thế, thì cuộc trị bình trong thiên hạ sẽ hóa ra cảnh giới trang nghiêm. Đó là Bệ hạ dùng diệu pháp mà tế độ nơi đời, được như vậy thì các khác nào như một vị Từ Bi Vương tái thế”.

Vua Lương Võ Đế nghe mấy lời của Ngài biện giải, càng thêm tôn sùng kính trọng hơn nữa.

Khi Ngài ở tại Chùa Song Lâm, thấy Kinh tạng chứa đầy, Ngài biểu mấy đạo chúng đem từ cuốn mà tả ra. Bổn ý của Ngài muốn khiến cho kẻ sơ địa phàm phu nhờ công đức chuyển kinh đó mà đạt tới nơi chánh chơn của Phật.

Bởi vậy trong thiên hạ, duy có chỗ Song Lâm, thì Thiên Long thường ủng hộ, nên kinh tạng được toàn bổn mà lưu truyền đời sau.

Thoạt một ngày kia, có một làn định quang kim túc của Đức Thích Ca, mùi thơm bát ngát, từ phương đông bay đến mà nhóm nơi mình của Ngài.

Bỗng nhiên có tiếng xướng rằng: “Phó Đại Sĩ xuất hiện ra đây, là thay thế cho Đức Thích Ca mà thuyết pháp, ngồi trên chỗ Long Hoa thắng hội mà chỉ rõ cái bổn nguyện từ mẫn của Đức Văn Thù và xiển dương huệ tập phổ thế của Đức Quan Âm”.

Rõ ràng Ngài cũng như bực y vương, đại thí những lương phương diệu tể mà điều trị tất cả bịnh vô minh phiền não. Thiệt là Ngài có công phu rất lớn và nhiều phương pháp khởi tử siêu sanh.

Có một bửa kia, khí trời nóng nực, Ngài ra ngoài gành biển mà hóng mát, dòm thấy dưới mé có một vùng quanh co theo bờ, và dân cư tại đó chỉ làm được ruộng muối mà thôi. Hễ đến thời tiết mùa thu, thì nước biển tràn lên linh láng, không thế nào mà ngăn cản cho đặng.

Ngài thấy vậy, liền nói với những người bổn xứ rằng: “Bần đạo muốn làm sao cho chỗ này thành ra ruộng tốt, để cho bá tánh cày cấy đặng nhờ đó mà an cư lạc nghiệp”.

Dân chúng nghe mấy lời ấy, đều cười rộ lên mà nói rằng: ” Ông này thiệt điên cuồng! Thuở nay thiền biển mà ai làm thành ruộng cho đặng bao giờ ?”

Ngài thấy dân chúng không đem lòng tin, liền lấy bao đựng cát đem chất xây giáp vòng như vách lũy mà bao ngạn luôn bãi cát ấy.

Lạ thay! Trọn một vùng bờ đê của Ngài làm đó, cách ít lâu cứng cũng như đá vậy, ngăn được ngọn nước thủy triều ngoài biển, không thế nào chảy vô được nữa, nhưng hồi Ngài làm đó có chia ra ba chặng, để ngừa khi Trời hạn và nước lụt.

Đến sau, nội trong khu đất ấy đều thành ra ruộng cả, ước chừng hơn hai ngàn mẫu, thường năm cày cấy đặng mùa luôn luôn. Dân cư trong xứ mỗi năm gặt lúa rồi, trích ra một phần ba để cung cấp cho tăng đồ trong các Chùa lân cận, mua chim cá mà phóng sanh, và làm nhiều việc phước thiện khác nữa.

Hiện nay mấy cái bờ bằng cát của Ngài làm đó hằng bền chắc, không có hư rã chút nào.

Thiệt là linh cảm thay chỗ di tích của bực Đại Thánh ngày xưa! Cho nên dân cư ở dọc theo mé biển ấy đều được phong y túc thực luôn luôn, cùng nhau lập Chùa thờ Ngài và truy tặng ruộng ấy là “phước điền”.

Sau Ngài qua phía Nam núi Phong Sơn mà chỉ điểm những chỗ ẩn tích nơi thâm khê cùng cốc, rồi mấy nơi ấy lần lần trở nên phong cảnh rất thiên nhiên và nét xuân quang bốn mùa đều xuất sắc.

Bửa nọ, Ngài đi chơi tới xứ Bắc thượng, chợt thấy một người đương sửa soạn làm thịt loài súc.

Ngài lật đật chạy lại can rằng: “Bần đạo xin tỏ cho nhà ngươi nghe. Tất cả loài súc sanh, nguyên nhân cũng là người thế gian, chớ không phải khác đâu, vì tạo ác nghiệp rất nặng nề, nên nay phải chịu khổ quả như vậy. Thoảng như mình làm điều phước thiện mà một đời chẳng được giàu sang, thì cũng còn có ngày trông giải thoát, chớ tạo nghiệp sát sanh như vậy, thì ngày sau khó tránh khỏi luân hồi khổ thú.

Bần đạo nguyện sao nhà ngươi hồi tâm tự lượng, đem tấm lòng nhân từ mà dung thứ những loài động vật, vì nó cũng đủ cả Phật tánh và cũng biết ham sống sợ chết như ta vậy.

Những người có nhơn hằng lấy con mắt Từ mà quán xét, xem vạn vật với ta đồng một thể, và muôn tượng với ta đồng một gốc. Nếu tấm lòng nhơn ái được như thế, thì chẳng những trọn đức từ bi lợi vật một thuở mà thôi, lại nhiều kiếp được trường thọ là khác nữa”.

Người ấy nghe Ngài phân giải như vậy, liền tỏ ngộ và chung thân không dám sát sanh loài động vật nữa.

Lại có một khi, Ngài đương đi ngoài đường, tình cờ gặp một người nông phu vừa cột một con trâu, đặng tính bề làm thịt.

Ngài đi hối hả lại can rằng: “Phàm ở đời, có nhơn thì có quả, không có sai chạy mảy nào, đó là lẻ cố nhiên như vậy. Hễ giết loài vật, thì có ngày chúng nó cũng giết lại, vậy mà trong đời có ai biết sợ sệt đâu, non dao rừng kiếm với vạc dầu ở chốn âm ty, để trừng trị những người tạo ác nghiệp như ngươi vậy, thì đời kiếp nào mà trông phần giải thoát cho đặng”.

Người nông phu nghe Ngài nói như thế, liền cúi đầu đãnh lễ và nguyện trọn đời không dám tái phạm nữa.

Ngài thường đi chơi ngoài đồng, bữa nọ lại gặp một ông Sa di hỏi Ngài rằng: “Thưa Đại Sĩ! Làm thế nào mà hàng phục được vọng tâm của mình?”

Ngài nghe hỏi, liền trả lời rằng: “Tâm là vật gì đâu mà ông phải tìm cho uổng công phu. Vả lại vọng tâm thiệt không có căn bản, hễ buông nó ra thì không thấy dấu tích gì là vọng. Bởi bị các duyên đeo đuổi lăng xăng, nên mới thành ra vọng niệm như vậy. Nếu nhứt chơn của ta đặng yên tịnh rồi, thì toàn thể như như phóng ra khắp cả pháp giới và bốn thể vẫn tự nhiên mà rõ rệt. Chừng đó, dẫu cho bụi trần cấu cũng không có thế nào mà che lấp cho đặng, thì có vật chi đâu mà ngươi gọi rằng điều phục”.

Ông Sa di nghe Ngài biện bạch như thế, vùng tỏ ngộ và tôn kính vô cùng, rồi đãnh lễ mà từ giã.

Cách ít lâu Ngài đi chơi, chợt thấy một ông Sa môn còn nhiễm theo tục trần, cứ khu trục trong trường mộng ảo.

Ngài bèn đón lại mà chỉ dụ rằng: “Bần đạo coi ông vốn thiệt là Phật. Lẽ nào ông nên tự độ lấy mình, đặng mong có ngày chứng đặng quả vô sanh pháp nhẫn, cớ sao ông lại còn yểm trợ theo thói phàm tình, đành che lấp bổn lai diện mục như vậy?

Bây giờ ông phải bỏ các duyên cấu trược, mà giũ sạch những thói tà phong, ráng sức công phu mà suy tìm trong tâm thể vô sanh, thì có ngày sẽ đạt tới chỗ diệu minh chơn tánh. Nếu ông hồi quang phản chiếu cho toàn thủy toàn chung rồi, sẽ đặng vô ngại viên thông.

Bần đạo ao ước làm sao cho ông được như thế, thì có khác nào một vị La Hán xuất trần, nếu chẳng vậy thì cũng làm một vị Khuất sát trượng phu. Chớ cách hành động như ông đó, thì đã không có ích cho mình, mà lại uổng công xuất thế học đạo vô vi, đến chung quy cũng còn lăn lộn trong đường Lục đạo, biết chừng nào mà thoát ra khỏi đặng vòng sanh tử. Như vậy có khổ hay không ?”

Ông Sa môn nhờ Ngài điểm hóa, nên liền tỏ ngộ lý chơn thừa. Từ đó về sau, ông càng lo tu học, không còn nhiễm nữa.

Thiệt cách phô tế của Ngài không khác nào một ông lương y, đã điều trị không biết bao nhiêu là chứng trầm kha phế tật, rõ ràng một hột minh châu có thể chỉ sắt hóa nên vàng, một lời pháp ngữ có thể đổi người phàm trở nên bực Thánh.

Bởi vậy cho nên Ngài thường dùng những phương pháp thiền định rất giản dị mà độ thoát tất cả chúng sanh qua khỏi sông mê bể khổ, dẫn dụ người đời ra khỏi nhà lửa đường mờ.

Ngài lại chẳng nên sự cấu nhục của thế tình, cứ xen lẫn trong chốn trần lao, mà thi hành những sự lợi ích cho hạng người còn sống say thác ngủ. Vì vậy cho nên trong tám phương hồ hải, chỗ nào cũng là chỗ viên giác đạo tràng của Ngài thế thác cả.

Còn đối với thập loại chúng sanh, thì Ngài càng đem lòng quyến luyến như con một cha, như người một nhà, không phân biệt nhơn ngã, và không biện luận Bắc Nam, vì tất cả chúng sanh thảy đều đủ chơn như diệu tánh như Ngài vậy, nhưng vì bị màn vô minh che lấp, nên phải trì trục trong vòng khổ hải sầu thành đó thôi!

Ngài thường đối với quần chúng mà nói rằng: “Muôn tượng chỉ bao la, song một mảy trần chẳng lập, nhứt chơn trong pháp giới, trăm hạnh đều phân vân. Tuy vậy chớ không lọt ra ngoài vòng như như chí lý, cho nên động tịnh đều là pháp tham thiền, nếu một niệm mà được khế chơn, thì sẽ có ngày mau lên bờ bỉ ngạn.

Đó là lời pháp ngữ của Ngài phát ra những lý mầu nhiệm của thiền gia, để bủa khắp chốn mê đồ, đặng mở rộng những nghĩa huyền tôn trong tâm địa, trước là thâu thập những người có lợi căn, sau là thức tỉnh số người còn độn trí. Thiệt công phu của Ngài đến vô lượng vô biên, lòng phổ tế trong đời cũng vô cùng vô tận.

Đến đời Lương, nhằm khoảng vua Quân Vương trị vì, niên hiệu Trinh Minh, năm thứ hai, ngày mùng ba tháng ba, Ngài đối trước chúng nhơn mà nói rằng: “Qua năm tới đây, cũng ngày này và tháng này, thì ta đem trái “Di Lặc” mà cúng dường cho đại chúng”.

Quả nhiên qua năm sau, cũng trong ngày ấy và tháng ấy, đại chúng thấy Ngài ngồi kiết già trên bàn thạch, gần bên Chùa Song Lâm mà nhập diệt. Ai nấy thảy đều kinh dị và than thở vô cùng.

Trong đại chúng mới hiệp lực cùng nhau kết khám mà để thi hài của Ngài, rồi làm một tòa bửu tháp rất tôn trọng, ngoài ngạch bia có khắc hiệu là: Định Ứng Tháp.

Hiện nay tại chỗ bửu tháp ấy, tuy trãi mấy phen tang thương biến đổi, mà công trình vẫn còn đồ sộ như xưa, thánh tích nguy nga, xa trông vọi vọi, bốn mùa người đàn Việt tới lui chẳng ngớt, một phương trời chuông trống rất oai nghiêm.

Đức Di Lặc tuy chưa đến thời kỳ xuất thế, nhưng tấm lòng từ bi vô hạn đối với tất cả quần sanh, đôi phen tùy theo cơ duyên thục thác mà ứng tích nơi đời, đặng nêu bày lẽ chánh tôn định huệ, cố ý nhiếp trì những hạng người đương chìm đắm nơi sông ái hà, và ra công phổ độ những kẻ bị chới với giữa dòng khổ hải.

Thiệt công đức của Ngài không có bút mực nào mà mô tả ra cho hết đặng.

Từ ấy chí nhẫn nay, có trên ngàn năm mà phước điền của Ngài còn lưu trụ các điện Đại hùng, thiện quả vẫn còn bủa khắp nơi trong thế giới.

Chẳng những mười phương đảnh lễ tôn sùng Ngài mà thôi, cho đến sáu chữ “Nam Mô Di Lặc Tôn Phật” thì người thường một lòng trì niệm, chẳng có chút nào biến đổi cả.

Nói tóm lại, Đức Di Lặc còn nhiều số kiếp nữa mới xuất hiện ra đời, để nối ngôi cho Đức Thích Ca mà làm một vị Phật thứ năm trong Hiền kiếp, đặng đại chuyển pháp luân mà tế độ muôn loài và phổ lợi trong sa giới.

Nhưng ngặt vì chúng sanh chưa rõ lẽ thiện chơn, cứ vọng tưởng những việc huyễn hoặc, mà đành chịu sa chìm vào nơi khổ hải và tự mình chuốc lấy nẻo luân hồi.

Chớ Chư Phật tuy đã nhập diệt rồi, song Tam Bảo còn lưu trụ khắp cõi nhơn gian, nếu ai hết lòng tinh tấn vui theo mà thọ trì, thì cũng như Phật đương trụ thế vậy.

Tiếc thay! Người đời trí cạn chướng sâu và tội nhiều phước ít, cho nên đối diện ngôi Tam Bảo coi như cách xa ngàn dặm.

Vì nguyên nhân của chúng sanh như thế, nên bất đắc dĩ Ngài mới ứng tích nhiều thời kỳ, đặng hóa độ các kẻ phàm loại trong nhơn gian đó thôi.

Nguồn: hoavouu

hoa-thu-mau-don-2016

Chuyển đến trang: 1  2  2a 2b 3  4  5  5a   6  8  9  10 11 12