ÐS-5: Những điều cần biết

Recent Pages: 1 2  3  4  5  6  7  8  9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20

THIỀN CHÁNH NIỆM VÀ NÃO BỘ
(Mindful Meditation & Brain)

Hồng Quang

“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì. Trái lại nếu tôi tin, tôi có thể làm thì sớm muộn gì tôi cũng sẽ thành tựu như ý muốn”. Thánh Ghandi *

Những lực sĩ, kịch sĩ, nghệ sĩ, thương gia, lãnh đạo tôn giáo…muốn thành tựu và nỗi danh họ không thể thiếu một điều then chốt, đó là sức mạnh của ý chí tích cực (“the power of positive thinking”.

Đủ thứ kỹ nghệ ngày càng phát triển thì, cũng không thiếu những cơn bệnh trầm kha thiếu thuốc chữa mà nguyên nhân chính là do căng thẳng, lo âu, phiền muộn, sợ hải, trầm cảm…, làm cho con người sống thiếu hạnh phúc, thiếu an lạc, bệnh hoạn, mau già và chết sớm.

Vấn nạn nầy có thể giải quyết, nếu con người biết sử dụng Thiền để thay đổi tư duy từ những ý nghĩ tiêu cực thành tích cực.

Những lớp tiềm thức trong tâm của chúng ta (subconscious layers of our mind) đang bị đè nén bởi căng thẳng, bởi tham sân si…, nên mạnh dạn quyết chí đem Thiền để đẩy chúng ra khỏi, tái lập một cuộc sống lâu dài hơn, có hạnh phúc hơn, khỏe mạnh hơn, thông minh hơn và đẹp hơn, mà chỉ cần một ngày vài chục phút ngồi thiền. Chúng ta còn gì để do dự chăng?

Dưới đây là 8 điều ngạc nhiên** về sự vận hành của não bộ mà người hành thiền nên biết.

1. Căng thẳng làm mất trí nhớ

Thí nghiệm trên những con chuột cho thấy con nào bị căng thẳng lâu dài thì vùng hải mã của con đó bị teo lại. Vùng hải mã là nơi tập trung toàn bộ trí nhớ.

Vấn đề được bàn cải là phải chăng sau bị chấn thương rối loạn căng thẳng thì vùng hải mã bị teo lại. Và phải chăng người nào có vùng hải mã nhỏ hơn thì có chiều hướng bị chứng chấn thương rối loạn căng thẳng (It has been debated whether post-traumatic stress disorder (PTSD) can actually shrink the hippocampus, or whether people with naturally smaller hippocampuses are just more prone to PTSD).

2. Não bộ không thể làm nhiều việc cùng một lúc

Từ lâu, con người nghĩ rằng cùng một lúc bộ não có thể làm được nhiều việc, nhưng thí nghiệm cho thấy, đó là điều không thể có (multitasking is actually impossible.

Làm hoặc nghĩ nhiều việc cùng một lúc, não bộ hoạt động lui tới giữa các công việc ấy, chứ không phải não bộ vận hành tất cả các việc cùng một lúc (we’re quickly switching back and forth between different tasks rather than doing them at the same time).

Đó là một trong nhiều lý do giải thích tại sao ăn cơm trong chánh niện, thiền hành trong chánh niệm thay vì vừa ăn vừa đọc báo, vừa thiền hành vừa nói chuyện hoặc suy nghĩ lung tung…

Thí dụ: Chúng ta làm hai nhiệm vụ A và B cùng một lúc. Ta thấy não bộ không “giải quyết” hai việc cùng thời. Thay vào đó nó chạy tới chay lui một cách “đau khổ”, và sử dụng năng lượng quan trọng của não cho việc di chuyển tới lui nầy.

Lúc não bộ vận hành một việc, thùy não phía trước đóng vai trò lớn. Thí dụ, lúc chúng ta cần quả cam. Thùy não vùng trước trán, bên trong, báo cho các phần còn lại của não bộ để tay chúng ta đưa về phía dĩa cam, và tâm (mind) biết ta sẽ có được quả cam hay không. Cùng lúc, nếu ta lại muốn ly nước ngọt, thì não bộ tự động phân làm hai nhiệm vụ, và mỗi nửa bán cầu não tự hoạt động riêng rẽ. Tình trạng nầy làm não bộ bị yếu, khó hoàn thành nhiệm vụ cần có, vì nguồn năng lực bị chia làm hai.

Nếu ý nghĩ thứ ba cùng lúc xuất hiện, như ta cần trái chuối. Não bộ có khả năng quên một trong ba suy nghĩ cùng lúc, và chúng sẽ tạo ra sự nhầm lẫn tai hại gấp ba lần so với khi hai nhiệm vụ mà não làm việc cùng thời.

3. Giấc ngủ trưa cải tiến hiệu năng não bộ

Chúng ta biết, giấc ngủ rất quan trọng cho bộ não, giấc ngủ trưa (naps) cũng thế:

– Làm gia tăng trí nhớ: Thí nghiệm trí nhớ trên hai nhóm người bằng cách cho họ học thuộc lòng một số vấn đề được in trên các tấm thẻ (cards). Họ được nghỉ 40 phút. Một nhóm ngủ, nhóm kia thức. Sau đó, họ được thí nghiệm trở lại. Nhóm ngủ 40 phút có điểm thí nghiệm cao hơn, trung bình 80%. Còn nhóm kia chỉ được 60% trung bình cho mỗi người.

– Thí nghiệm cho thấy, lúc những điều học thuộc lòng, trước tiên được chứa trong vùng hải mã của não, có thể dễ bị “vỡ” (fragile) và dễ bị quên (forgotten), đặc biệt là lúc não bộ bị buộc nhớ thêm một số vấn đề khác.

Lúc ngủ trưa, những điều đã nhớ dường như được đẩy vào vùng vỏ não mới (neocortex), các ký ức được chứa an toàn hơn, không bị mất (overwrite).

4. Thị giác vượt trên các giác quan khác (Your vision trumps all other senses).

Mặc dù thuộc một trong năm giác quan, nhưng thị giác trội hơn tất cả các giác quan còn lại. Nghe một mẫu thông tin, ba ngày sau chỉ nhớ được 10 %. Nhưng thấy một tấm hình thì nhớ được 65 %.

Lúc đọc một bản văn, não bộ phải định dạng nhiều hình nhỏ bé của các chữ để có thể hiểu mà đọc. Và như thế sẽ làm mất thì giờ…

5. Hướng nội và hướng ngoại

Những người hướng nội và hướng ngoại là do các tế bào thần kinh trong bộ não của họ quấn lại với nhau một cách khác biệt. Như vậy họ khác nhau không phải vì người hướng ngoại ưa đi ra ngoài để giao tiếp, còn người hướng nội thì tánh tình e thẹn, mà do sự:

– Khác nhau trong bộ não:

– Khác nhau về di truyền,

– Khác nhau về sự tiếp nhận sự tưởng thưởng.

Ví dụ: bộ não phản ứng một cách mạnh mẽ khi đánh bạc ăn. Một phần là do di truyền phần khác là do hệ dopamine (có chức năng thúc đẩy hoạt động).

Khi họ đánh bạc ăn (hay một trò chơi ăn thua nào đó), nhóm người hướng ngoại có nhiều hoạt động trong hai vùng não quan trọng: hạch hạnh nhân(amygdala) và các nhân liền kế nhau (neucleus accumbens).

Các nhân liền kế nhau nầy là một phần của hệ dopamine ảnh hưởng đến việc học hỏi của chúng ta. Hệ thống dopamine động viên chúng ta tìm kiếm những niềm vui.

Nơi người hướng ngoại thì hệ này thúc đẩy họ tìm những thứ mới mẽ, chấp nhận rủi ro và thích thú với những điều lạ hoặc kinh ngạc nhiều hơn là những người hướng nội.

Hạch hạnh nhân xử lý các cảm giác đến từ bên ngoài làm cho người hướng ngoại cảm thấy bị kích động. Nếu điều này xảy ra cho người hướng nội thì họ chịu không nỗi, nên họ không làm như người hướng ngoại.

Nhiều cuộc nghiên cứu cho thấy, sự khác biệt giữa người hướng nội và hướng ngoại xử lý các kích thích từ bên ngoài. Nơi người hướng ngoại, con đường tiếp nhận kích thích (cảm giác) từ mắt, tai, mũi và lưỡi, ngắn hơn so với người hướng nội. Con đường tiếp nhận này dài hơn và phức tạp hơn liên quan đến các phần trong não như trí nhớ, hoạch định và giải quyết các vấn đề.

6. Thích những người có đôi chút nhầm lẫn.

Ông Kevan Lee giải thích, người không bao giờ phạm lỗi sẽ có ít người chú ý hơn người thỉnh thoảng phạm lỗi. Sai lầm đôi chút tạo cho người khác chú ý đến chúng ta. Con người, ít nhiều, thường có lỗi, và đó như là một bản tính của người.

Nhà tâm lý học Elliot Aronson thí nghiệm xem điều nhận xét trên có đúng không, bằng cách kêu gọi những người tham dự nghe đoạn băng thu các câu trả lời của một câu đố. Chọn đoạn thu băng gồm cả tiếng của một người gõ trên téch cà phê. Các người tham dự cuộc thí nghiệm được yêu cầu cho điểm thích ai. Nhóm người làm đỗ café có điểm cao hơn. Điều đó cho thấy, chúng ta có khuynh hướng không thích con ngươi quá hoàn toàn, mà thích những người có đôi chút lỡ lầm.

7. Vận động thể lực có thể tái phối trí não bộ và gia tăng mãnh lực ý chí (Exercise can reorganize the brain and boost your willpower).

Thân và tâm liên đới với nhau là điều dĩ nhiên. Hạnh phúc và luyện tập cơ thể cũng thế.

Liên tục tập thể dục (A lifetime of exercise ) làm cho nhận thức bén nhạy, nhớ dai, lý luận giỏi, tập trung chú ý tốt và giải quyết những vấn đề nhanh chóng.

Lúc vận động, não bộ nhận biết giống như lúc bị căng thẳng, nhịp đập của tim gia tăng. Để đối đầu với hiện trạng nầy, cơ thể tiết ra chất protein có tên BDNF (brain-derived neurotrophic factor). Cùng lúc, chất endorphins trong não bộ cũng được tiết ra. Chất nầy làm êm dịu sự khó chịu, chận đứng cơn đau, ngay cả làm cho ta cảm thấy hưng phấn (euphoria), nhà nghiên cứu McGovern viết như thế.

8. Thiền có thể tái tạo não bộ tốt hơn.

Tác giả bài báo viết, tôi cứ tưởng Thiền chỉ giúp tôi gia tăng sự chú ý và có sự an lạc suốt ngày, nhưng không phải chỉ có thế, Thiền mang đến cả khối lợi ích. Sau đây là vài thí dụ:

-Ít bị âu phiền: Điều nầy rất thích thú. Thiền nhiều, âu phiền ít (The more we meditate, the less anxiety we have). Vì lúc chúng ta Thiền thì những con đường tiếp nối các giây thần kinh bị mất (we’re actually loosening the connections of particular neural pathways). Nghe có vẻ tai hại, nhưng không. Vì giữa phía trước võ não là vùng chuyển tải [“me center” ] các thông tin liên hệ và những kinh nghiệm của chúng ta. Thông thường, những con đường chuyển giây thần kinh từ sự nhạy bén của cơ thể và những trung tâm sợ hải của não bộ đến vùng “me center” rất mạnh. Lúc có biến cố như sợ hải hoặc giận hờn thì vùng nầy kích hoạt mạnh làm cho chúng ta sợ hải và cảm thấy đang bị tấn công. Lúc ngồi thiền được 20 phút, thì sự giao tiếp của giây thần kinh bị yếu. Có nghĩa là chúng ta không phản ứng mạnh đối với các cảm xúc trong vùng “me center”. Xem hình đính kèm:

Trước lúc Thiền Sau lúc Thiền

-Nhiều sáng tạo (More Creativity): Một thí nghiệm tại Đại học Leiden University, Netherlands cho thấy, Thiền chú ý tập trung (focused-attention meditation) không có dấu hiệu làm gia tăng sự sáng tạo. Trái lại, Thiền buông thư (open-monitoring meditation) có dấu hiệu gia tăng.

– Trí nhớ tốt hơn (Better Memory): Bà Catherine Kerr, một thí nghiệm viên tại Martinos Center, tìm thấy những người thực hành Thiền Chánh niệm (mindful meditation) thì não bộ tự điều chỉnh loại bỏ những thứ làm lãng trí và gia tăng óc sáng tạo so với những người không thiền (screens out distractions and increase their productivity). Thiền, còn làm tăng gia lòng từ bi, giảm căng thẳng, cải tiến kỹ năng nhớ và ngay cả tăng gia trí thông minh (Meditation has also been linked to increasing compassion, decreasing stress, improving memory skills and even increasing the amount of gray matter in the brain).

TÓM LƯỢC

Bài viết tuy ngắn, nhưng cho chúng ta một hình ảnh rất ích lợi và khá cụ thể về, sự vận hành của não bộ liên đới đến luyện tập thể lực và Thiền quán.

Qua đó, một lần nữa, chúng ta thấy tâm tạo tác, tâm chủ động, vạn pháp đều do tâm như lời Phật dạy.

Nếu tâm an, thân lạc thì hạnh phúc sẽ nằm trong tầm tay với. Mà Thiền có thể chuyển đổi tâm. Do đó, Thiền có thể thay đổi thân và thay đổi cuộc sống của chúng ta từ sầu bi khổ lụy, căng thẳng giận hờn thành con người an lạc, hạnh phúc, ít tật bệnh, đẹp và thông minh hơn. Xã hội là tập hợp của những đơn vị cá nhân. Nếu mỗi một cá nhân tốt đẹp khỏe mạnh thì xã hội sẽ được chuyển hóa, thăng hoa và phú cường.

Thiền là thức ăn là nguồn sống của nhân loại. Mỗi ngày giành vài chục phút để thưởng thức sự diệu dụng của Thiền. Mong tất cả dõng mãnh tin tấn thực tập.

Hồng Quang

16.3.2014

Ghi chú

* (Đoạn văn tiếng Việt được dịch từ bản tiếng Anh do “EquiSync Support info@eocinstitute.org” gởi đến.

[http://www.huffingtonpost.com/belle-beth-cooper/10-surprising-things-that-benefit-our-brains_b_4275770.html?utm_hp_ref=meditation]. Posted 11/19/2013 7:36 pm

Bài viết bằng tiếng Việt bên trên dựa theo bài “10 Surprising Things That Benefit Our Brains That You Can Do Every Day”.

 Nguồn: HoaVoUu
.Hoa Bo Cong Anh 2014 (mh) (13)

Những điều căn bản
chúng ta nên biết về áp huyết.

Áp huyết là gì?

Áp huyết là áp suất của máu trên thành động mạch chính lúc tim hoạt động.

Áp huyết lý tưởng nhất là:   <120/<80/60-80

Áp huyết bình thường là:      <130/<85

Áp huyết hơi cao là:              130-139/85-89

Áp huyết cao giai đoạn I là:    140-159/90-99

Áp huyết cao giai đoạn II là:   160- 179/100-109 (Nên gặp bác sĩ gia đình)

Áp huyết cao giai đoạn III là:  180-209/110-119  (Nên gặp bác sĩ gia đình)

Nếu áp huyết cao tới: 210/120 nên đi cấp cứu.

Những con số 120/80/60-80 là gì?

120 là áp huyết động mạch tối đa hay còn gọi là tâm thu (systolic blood pressure).

80 là áp huyết động mạch tối thiểu hay còn gọi là tâm trương (diastolic blood pressure)

60-80 là nhịp đập của tim trong một phút.

Chúng ta nên đo áp huyết thường xuyên mỗi tuần cho những người nằm trong trường hợp bình thường (trung bình 120/80), và đo mỗi ngày cho những người bị áp huyết cao (trung bình từ 150/95) và áp huyết quá thấp (trung bình 90/60).

Đừng quá lo sợ khi đột nhiên chúng ta thấy áp huyết quá cao.

Áp huyết cao đột ngột có nhiều lý do. Có người áp huyết tăng cao khi đến phòng mạch bác sĩ. Lo nghĩ quá nhiều, bị thương tích quá đau cũng làm tăng áp huyết. Do đó nếu áp huyết tăng bất ngờ vì những vấn đề nêu trên thì chúng ta cũng không nên lo lắng quá.

Chúng ta cần phải làm gì để duy trì áp huyết ở mức độ bình thường.

1. Đi lễ và cầu nguyện thường xuyên.

2. Làm việc vừa phải trong phạm vi sức khỏe của mình (tránh stress).

3. Tập thể thao (đi bộ, đạp xe đạp, bơi lội, chạy bộ, Tai chi, Yoga thưởng xuyên  3 ngày 1 tuần và mỗi lần trung bình từ 30′ cho tới 1 giờ. Có thể tập 7 ngày & nhiều giờ hơn.)

4. Giảm bớt ăn mặn (muối, nước tương, nước mắm v.v…)

5. Giảm bớt những thức ăn đóng hộp (mì gói, Pizza, hamburger, French fries, thức ăn chiên xào hoặc nhiều dầu mỡ v.v…)

6. Bỏ hút thuốc, bỏ uống cafe, trà và ruợu bia.

7. Châm cứu rất hữu hiệu cho việc điều hòa áp huyết.

Áp huyết cao sẽ gây ra những căn bệnh hiểm nghèo nào?

1. Gia tăng nguy cơ bị tai biến mạch máu não (stroke).

2. Làm hư thận.

3. Làm hư mắt (có thể bị mù mắt).

4. Gia tăng nguy cơ bị bệnh tim.

5. Gia tăng nguy cơ bị đứng tim.

Những điều cần nên tránh khi bị cao áp huyết:

Không nên uống thuốc bừa bãi mà không hỏi ý kiến Đông Y Sĩ  cho dù đó là dược thảo.

* Tuyệt đối không uống sâmcam thảo khi bị cao áp huyết.

Để Giữ Gìn Sức Khỏe
Và Ngăn Ngừa Bệnh Cao Áp Huyết

Theo đà tiến hoá của nhân loại, khoa học càng ngày càng tiến bộ và kỹ nghệ chế biến thực phẩm ngày được cải tiến. Thực phẩm ngày nay được chế biến để ăn một cách mau lẹ không cần nấu nướng hay giảm thiểu thời gian nấu nướng tới mức tối đa. Chúng chứa nhiều chất béo, chất đường, chất muối, chất hóa học giữ gìn thực phẩm. Chính những loại thực phẩm tiện lợi, ăn nhanh này là nguyên nhân gây ra bệnh tật. Như cao áp huyết, cao mỡ, bép phì và bệnh tiểu đường.

Để giữ gìn sức khỏe và ngăn ngừa bệnh cao áp huyết, chúng ta nên:

1. Ăn một ngày 3 bữa: Sáng, trưa, và chiều.

2. Không uống cà phê, trà, nước ngọt các loại (thí dụ: Coca Cola, Pepsi v.v….)

3. Không ăn đồ gói, mì gói, đồ hộp các loại.

4. Ăn nhiều rau, đậu, trái cây các loại. (Nếu không bị tiểu đường).

5. Ăn cá nhiều hơn ăn thịt: cá hồi (salmon) hay các loại cá mình thích.

6. Ngưng hút thuốc lá.

7. Uống bia rượu vừa phải (trung bình 1 ly rượu vang 1 ngày).

8. Không ăn tối sau 7 giờ.

9. Nên tập thể dục từ 30′ tới 1 giờ đồng hồ mỗi ngày.

1. Ăn một ngày 3 bữa: sáng, trưa, chiều.

Sau bữa cơm tối và một giấc ngủ qua đêm cho đến ngày hôm sau trung bình là hơn 10 giờ đồng hồ, lúc này chúng ta sẽ đói vì dạ dày hoàn toàn trống rỗng. Chúng ta cần ăn để có đủ sức làm việc, và nên chia đều thời gian cách khỏang 4 giờ cho ba bữa ăn: sáng, trưa và chiều.

2. Không uống cà phê, trà và nước ngọt Cô La các loại.

Cà phê, trà và nước ngọt Cô La các loại có chứa một lượng caffeine rất cao. Một ly cà phê trung bình có chứa từ 100mg-150mg caffeine, một ly trà có chứa trung bình từ 30mg-70mg và một lon nước ngọt Cô La từ 45mg tới 100mg. Caffeine làm cho nhịp tim gia tăng và khi nhịp tim gia tăng, áp huyết sẽ gia tăng theo. Giảm thiểu tối đa các loại thựp phẩm ngọt vì đường làm lên cân và tăng lượng mỡ (cholesterol) trong máu. Bép phì và cao mỡ cũng là những nguyên nhân gây cao áp huyết.

3. Không ăn đồ gói, mì gói và đồ hộp các loại.

Đồ gói, đồ hộp thường chứa chất Bisphenol A (BPA), chất chì, muối và nhiều chất hóa học giữ gìn thực phẩm lâu hư. Các chất hóa học này là nguyên nhân chính gây ra các bệnh ung thư, tiểu đường và bệnh tim. Giảm thiểu tối đa các loại thực phẩm có chứa nhiều muối. Muối là nguyên nhân chính làm cao áp huyết.

4. Ăn nhiều rau, đậu, trái cây các loại (nếu không bị bệnh tiểu đường).

Ăn nhiều rau, đậu, hạt, trái cây các loại giúp quân bình cơ thể. Đậu, hạt các loại có chứa nhiều khoáng chất như: chất sắt, kẽm, calcium và magnesium. Các khoáng chất này rất quan trọng trong việc điều hòa áp huyết.

5. Ăn cá nhiều hơn ăn thịt: Cá salmon (cá hồi) hay các loại cá mình thích.

Theo các nhà nghiên cứu về thực phẩm thì cá hồi là loại cá tốt nhất trong các loại vì dầu của cá làm giảm lượng mỡ xấu trong máu. Sau cá là gà. Các loại thịt như bò và heo tạo ra một lượng mỡ xấu rất cao trong máu. Mỡ xấu là một trong những nguyên nhân chính gây ra chứng bệnh tim, nghẽn mạch máu và cứng động mạch.

6. Ngưng hút thuốc lá.

Theo các nghiên cứu của hội tim mạch Hoa Kỳ (AHA) thì hút thuốc lá là một trong những nguyên nhân gây ra chết yểu (một người hút thuốc trung bình chết 10-15 năm sớm hơn). Hút thuốc còn gây ra những bệnh nguy hiểm đến tính mạng khác như: ung thư phổi, ung thư cổ tử cung, ung thư miệng, ung thư tụy tạng. Hút thuốc còn gây ra bệnh cao áp huyết, sơ cứng vành động mạch, đau tim và tai biến mạch máu não.

7. Giảm bớt uống rượu bia.

Cũng theo các nghiên cứu của hội tim mạch Hoa Kỳ (AHA) thì uống rượu nhiều rất có nguy cơ bị bệnh nghiện rượu, và uống rượu nhiều dẫn đến bệnh cao áp huyết, bệnh béo phì, tai biến mạch máu não, ung thư vú và dẽ gây ra tai nạn.

8. Không ăn tối sau 7 giờ.

Chúng ta nên dành thời gian khoảng 3 tiếng cho dạ dày làm việc trước khi đi ngủ. Nếu chúng ta ăn no quá và bao tử không có thời gian để tiêu hóa, trong lúc ngủ cơ thể của chúng ta không hoạt động để tiêu thụ năng lượng. Việc này dễ gây ra tình trạng quá trọng lượng và giấc ngủ của chúng ta sẽ rất khó khăn.

9. Nên tập thể dục từ 30 phút đến 1 giờ mỗi ngày.

Chúng ta nên dành 30 phút cho đến 1 giờ mỗi ngày để tập thể dục, và chọn những môn thể thao chúng ta ưa thích vì có thích thì chúng ta mới hăng say tập luyện. Thí dụ: Đi bộ, chạy bộ, đạp xe đạp, bơi lội, dancing, leo núi, tập thiền, Yoga, Tai chi, Khí công, tập võ, tập tạ v.v… Nên chia đều thời gian tập thể dục làm hai phần, một phần tập môn thể thao không nhanh, không mạnh như Yoga, Tai chi, Khí công, Thiền v.v.. Và một nửa thời gian còn lại tập môn thể thao hoạt động nhanh và mạnh như chạy bộ, bơi lội, đạp xe đạp, tập võ, tập tạ v.v…

Đây là những kinh nghiệm của ông tôi, ông năm nay gần 90 tuổi rồi và sau bao nhiêu năm đi tù cải tạo từ ngày đến Mỹ ông luôn luôn ăn uống theo những điều nêu trên, ông không bị bệnh bất cứ chứng bệnh gì kể cả bệnh cao áp huyết, cao mỡ và tiểu đường.

Nếu quý vị ăn uống theo đúng như hướng dẫn, tôi tin rằng trong 6 tháng quý vị sẽ giảm cân và giữ được sức khỏe của mình như ý mình mong muốn.

Nguồn: VNCO.

mh 115j

Những điều cần biết khi ăn cam

Cam là trái cây chứa nhiều nước và các loại chất dinh dưỡng như vitamin C, acid citric, glucose… có thể đáp ứng nhu cầu cơ bản của cơ thể con người. Tuy nhiên, bạn cần phải biết sử dụng đúng cách, đúng mục đích.

Đặc biệt đối với những bệnh nhân bị viêm gan mãn tính và cao huyết áp, nếu ăn cam nó thể thúc đẩy chức năng giải độc của gan, đẩy nhanh việc chuyển đổi cholesterol, ngăn ngừa xơ vữa động mạch.

Đồng thời, ăn cam thích hợp cũng có thể làm tăng sự thèm ăn. Tuy nhiên, nếu bạn ăn cam không đúng cách nó có thể mang lại tác hại cho cơ thể. Dưới đây là 5 điều chú ý khi ăn cam:

Không uống sữa khi ăn cam

Protein trong sữa sẽ phản ứng với axit tartaric và vitamin C có trong cam, nó không chỉ ảnh hưởng đến quá trình tiêu hóa và hấp thụ thức ăn mà còn có thể gây ra tình trạng chướng bụng, đau bụng, tiêu chảy…Do vậy không nên uống sữa trước hoặc sau khi bạn đã ăn cam một giờ.

Không ăn cam và củ cải cùng nhau

Khi ăn củ cải vào cơ thể con người, nó sẽ nhanh chóng sản xuất một chất gọi là “sulfate”. Sau khi sulfate được chuyển hóa, nó sẽ sản xuất một chất chống tuyến giáp – thioxianic axit. Nếu bạn ăn cam tại thời điểm này, các flavonoid có trong cam sẽ được phân hủy trong đường ruột và thay đổi thành axit hydroxy và acid ferulic. Hai loại chất có thể tăng cường tác dụng ức chế axit thioxianic về tuyến giáp, sẽ tạo ra hoặc gây bướu cổ.

Không ăn quá nhiều cam mỗi ngày

Theo nghiên cứu của các nhà khoa học, ăn ba cam mỗi ngày là đủ để đáp ứng nhu cầu vitamin C của cơ thể mỗi ngày. Ăn quá nhiều cam có thể sẽ dẫn đến việc tiêu thụ quá nhiều vitamin C và tăng acid oxalic chuyển hóa trong cơ thể, điều này sẽ dẫn đến sỏi tiết niệu và sỏi thận. Hơn nữa, ăn quá nhiều cam cũng có hại cho răng và miệng.
.

Không nên ăn cam trước bữa ăn với dạ dày trống rỗng

Lý do bởi vì các axit hữu cơ có trong cam sẽ kích thích các màng nhầy của thành dạ dày, đó là có hại cho sức khỏe của cơ thể.

Cuối cùng nhưng không phải là ít, đó là những người già không nên ăn quá nhiều cam, đặc biệt là đối với những người mắc bệnh thận, đường tiêu hóa và các bệnh phổi. Nếu không, nó sẽ dễ dàng dẫn đến đau bụng, đau ngang thắt lưng, đau lưng, và các triệu chứng khác.

Cam có nhiều công dụng kỳ diệu

Ngoài bổ dưỡng, cam còn có nhiều công dụng kỳ diệu nếu bạn biết sử dụng đúng cách:

– Tăng cường thể lực: Sau khi tập luyện ra nhiều mồ hôi, bạn nên uống một cốc nước cam bỏ thêm chút muối, nó sẽ nhanh chóng được cơ thể hấp thụ, có tác dụng giải khát và bồi bổ thể lực. Tuy nhiên, để tránh tình trạng vitamin C bị mất trong môi trường, bạn nên uống hoặc ăn ngay sau khi ép nước cam hoặc gọt vỏ. Thời gian sau chế biến không nên quá 30 phút.

Làm sạch da: Bạn có thể dùng khăn sạch thấm và xoa trực tiếp nước ép cam lên mặt khoảng 5-10 phút, sau đó rửa lại bằng nước sạch. Bạn cần phải lưu ý rằng, ngay sau khi thoa nước ép lên mặt, không nên đi ra nắng, tránh phản ứng với các tia tử ngoại làm mất tác dụng.

Tăng cường hệ miễn dịch: Cam có tác dụng bổ sung chất dinh dưỡng, tăng cường hệ miễn dịch, giúp người bệnh nhanh phục hồi sức khỏe, nhanh lành vết thương. Đặc biệt là bổ sung chất xơ, có lợi cho tiêu hóa. Những người hút thuốc, nên ăn nhiều cam. những bệnh nhân mắc viêm ruột, viêm túi mật, nên thận trọng khi ăn cam.

Tẩy da chết, làm đẹp da: Vỏ cam chứa nhiều flavonoid và vitamin C, những chất này sẽ kích thích quá trình trao đổi chất trên da, nâng cao sức đề kháng cho các nang lông, có tác dụng tẩy da chết hiệu quả.

Giúp ngủ ngon giấc: Phơi khô vỏ cam sau đó cho vào túi thơm, treo trong phòng ngủ, nhà bếp hoặc tủ quần áo, nó sẽ có tác dụng kích thích ngủ ngon giấc, đuổi muỗi, làm sạch không khí.

Trị bệnh phong thấp: Hạt cam phơi khô dưới bóng râm mát đem rang vàng, sau đó tán bột hòa uống 3 – 5g với nước đun sôi để nguội giúp điều trị phong thấp.
.
ST Internet

crocus-march-12-2013

Tê tay bất thường: đích thị là bệnh

Tê tay là một trong những khó chịu mà một số người, già cũng như trẻ, mắc phải. Bệnh có thể do nhiều nguyên nhân: rối loạn canxi máu, co thắt mạch máu ngoại vi… nhưng hay gặp nhất là hội chứng ống cổ tay. Nam hay nữ đều có thể bị bệnh, nhưng phụ nữ bị nhiều hơn nam giới.

Triệu chứng: dễ nhận biết

Tê tay do hội chứng ống cổ tay thường gặp ở người 35 tuổi trở lên, nhất là ở phụ nữ, người trẻ hơn cũng có thể bị nhưng ít. Bệnh thường thấy ở người lao động dùng nhiều tới động tác lắc của cổ tay, như các bà nội trợ, chị em tiểu thương. Chị em buôn bán thịt cá ở chợ cũng dễ bị chứng bệnh này, có thể do hay dùng dao nặng chặt thịt cá hàng ngày, cũng có phần do thường xuyên chịu ẩm ướt. Người lao động các ngành nghề cần sử dụng bàn tay nhiều, cả nam lẫn nữ, đều có thể bị. Người hay sử dụng máy vi tính cũng có thể bị tê tay. Hội chứng ống cổ tay còn là biểu hiện của một trong những bệnh sau: các loại viêm đa dây thần kinh, bệnh viêm đa khớp dạng thấp… Ví dụ: trong viêm đa dây thần kinh do tiểu đường, giai đoạn đầu có thể chỉ có hội chứng ống cổ tay. Hội chứng này đôi khi xuất hiện song song với bệnh thoái hoá cột sống cổ.

Biểu hiện đầu tiên của bệnh là tê tay: tê ở gan bàn tay, cùng với ngón trỏ và ngón giữa. Thường nhất là người bệnh chỉ thấy tê ngón trỏ và ngón giữa. Nhưng cũng có người cảm thấy tê ở tất cả các ngón tay, ở hai ngón vừa kể thì tê nhiều hơn. Tê tay thường xuất hiện khi cầm tay lái xe máy đi xa, có người đang đi xe máy phải dừng lại buông tay ra vẩy vẩy mấy cái, rồi mới đi tiếp được. Càng ngày quãng đường đi xe máy không bị tê tay càng ngắn lại; cũng có người đang ngủ, nửa đêm bị thức giấc do tê và đau các ngón tay, dậy đi lại và vẩy tay một lúc lại hết tê và ngủ lại được. Bệnh thường khởi đầu ở một tay, thường là ở tay thuận. Ví dụ nếu thuận tay phải, thì khi bị tê tay do hội chứng ống cổ tay, thường bị ở tay phải trước. Về sau có thể tay bên kia cũng tê. Sau một thời gian không được chữa trị, dần dần có rối loạn vận động, biểu hiện bằng yếu và teo khối cơ ô mô cái là khối cơ vốn phồng lên ở gan tay, chỗ dưới của ngón tay cái (người miền Nam gọi là “trái chanh”). Khi quá gấp hoặc quá ưỡn cổ tay, triệu chứng tê tay có thể tăng lên.

Gõ búa ra bệnh

Nguyên nhân của bệnh là do dây thần kinh giữa bị chèn ép ở cổ tay. Dây thần kinh giữa là một dây nhận cảm giác ngoài da của ngón trỏ và ngón giữa, và gan bàn tay ở phía dưới hai ngón tay đó. Đồng thời, dây thần kinh giữa còn chỉ huy co cơ của các ngón tay, nhất là tại ô mô cái. Tại cổ tay, dây thần kinh giữa đi trong một đường ống, gọi là ống cổ tay (carpal tunnel). Ống cổ tay là khoảng không gian giữa các xương của cổ tay ở dưới và ở hai bên, có một tấm gân rộng gọi là cân ngang của cổ tay phủ lên trên như một cái mái. Khoảng không gian trong ống cổ tay khá chật hẹp, khi nó chít hẹp lại, thì dây thần kinh giữa bị chẹt trong đó, gây ra hội chứng ống cổ tay. Khi khám bệnh, bác sĩ thần kinh dùng búa cao su gõ vào cổ tay, người bệnh thấy tê lan xuống các ngón tay, gọi là dấu hiệu Tinnel.

Hội chứng ống cổ tay là loại bệnh gây tê tay (và teo bàn tay nếu để muộn) hay gặp nhất. Trên thế giới người ta đã đề cập tới từ lâu. Một phương pháp giúp chẩn đoán chính xác hội chứng ống cổ tay là chẩn đoán điện, hay còn gọi là điện cơ. Hiện nay nhiều bệnh viện trong cả nước đã có máy điện cơ. Nếu bạn gần đây hay bị tê tay, tê tăng lên khi cầm tay lái xe máy, hoặc bị vào lúc nửa đêm đang ngủ, tê nhiều ở ngón trỏ và ngón giữa, thì chúng tôi khuyên bạn hãy đi đo điện cơ, tức là làm chẩn đoán điện. Nếu đã chẩn đoán rõ ràng là hội chứng ống cổ tay, thì việc điều trị tê tay trở nên dễ dàng.

Hai cách điều trị

Điều trị nội khoa là bác sĩ sử dụng thuốc kháng viêm, thuốc bổ dưỡng cho dây thần kinh, và thuốc bổ dưỡng cho hệ thống xương sụn. Nếu bệnh không đỡ, bác sĩ sẽ chích thuốc corticoide vào trong ống cổ tay. Bệnh có thể khỏi từ vài tháng đến nhiều năm, tuỳ từng người, càng phát hiện sớm để trị bệnh thì càng mau khỏi.

Điều trị phẫu thuật thì triệt để hơn: bác sĩ rạch một đường nhỏ ở cổ tay để giải phóng dây thần kinh ra khỏi ống cổ tay. Đây là một phẫu thuật thường làm, thường chỉ cần gây tê tại chỗ, bệnh nhân thậm chí không cần nằm viện. Đa số sau mổ khỏi vĩnh viễn.

Vì vậy, khi bị tê tay khi đi xe máy, tê tay về đêm, hãy khám thần kinh, đo điện cơ nếu cần, và tiến hành điều trị sớm bằng nội khoa hoặc phẫu thuật.

PGS.TS.BS Nguyễn Hữu Công

BỆNH XỐP XƯƠNG

Bác sĩ Nguyễn Văn Đức

Nhờ những tiến bộ cuả y học, tuổi thọ chúng ta ngày càng tăng. Cao tuổi, chúng ta dễ gãy xương. Một trong những yếu tố quan trọng khiến ta hay gãy xương khi có tuổi là bệnh xốp xương.Bệnh xốp xương, hay rỗng xương (osteoporosis), khiến xương yếu dần, trở nên mềm, dễ gãy. 20 triệu người ở Mỹ hiện mang bệnh xốp xương. Nhiều vị thành tàn phế, phải trông nhờ vào sự chăm sóc của người khác. Ở Việt Nam ta, hình ảnh của bệnh cũng đã đi vào ca dao:
“Bà còng đi chợ trời mưa
Cái tôm cái tép đi đưa bà còng”

Bệnh xảy ra cho phụ nữ nhiều hơn đàn ông.

Thời gian gần đây, nhiều khám phá mới đưa đến những hiểu biết cặn kẽ hơn về căn bệnh, đồng thời, những phương pháp định bệnh chính xác, nhiều cách chữa trị hữu hiệu lần lượt ra đời, giúp các bác sĩ có thêm phương tiện định bệnh, trong tay thêm nhiều vũ khí chiến đấu chống căn bệnh.

Mỗi xương gồm có vỏ bên ngoài, bao bọc một lòng bên trong. Lòng xương bình thường đặc và chắc. Bệnh xốp xương do một số các chất trong lòng xương mất đi dần theo thời gian, khiến xương không còn đặc, chắc như trước. Đây là hiện tượng mất xương (bone loss) theo thời gian khi ta có tuổi.

Đời là một tiến trình vừa phá hoại, vừa xây dựng. Xương là nơi thể hiện triết lý này triệt để nhất. Trong suốt cuộc đời ba vạn chín nghìn ngày của chúng ta, luôn luôn trong xương lúc nào cũng có tiến trình phá xương cũ, tạo xương mới. Công tác phá xương cũ được trao cho các tế bào có tên gọi “osteoclast”. Công tác tạo xương mới do các tế bào có tên “osteoblast” đảm nhiệm. Tên chúng giống nhau, chỉ khác có chữ c và b ở giữa (c là cắn cấu, b là bồi bổ).

Thời gian không những gặm nhấm tâm hồn ta, còn gặm dần xương ta. Cho đến khoảng tuổi giữa 30 vào 40, xương vẫn tiếp tục phát triển, nên ta tạo xương nhiều hơn mất xương. Sau đó, tới một giai đoạn cân bằng, xương tạo ra do các tế bào “osteoblast” cân bằng với xương lấy mất đi bởi các tế bào “osteoclast”. Chỗ nào trong xương bị các tế bào osteoclast cắn phá, chỗ ấy lập tức được các tế bào osteoblast chạy tới bồi đắp những xương mới. Rồi khi về già, ít nhiều, chúng ta đều mất xương dần, do xương cũ bị phá đi, song xương mới không tạo ra kịp để trám các chỗ hổng trong xương, nơi những xương cũ không còn. Ai mất xương nhiều quá, sẽ bị bệnh xốp xương.

Đặc biệt, phụ nữ, sau khi mãn kinh, cùng với những thay đổi khác của cơ thể gây do mãn kinh, như hay bị những cơn hừng nóng mặt (hot flashes), khó ngủ, buồn sầu, đi tiểu nhiều lần, tiểu khó, …, người phụ nữ cũng bị mất xương nhanh chóng. Do buồng trứng nghỉ làm việc, không còn tiết đủ chất kích thích tố nữ estrogen cần cho cơ thể như xưa. Estrogen có tác dụng cân bằng sự phá xương và sự tạo xương. Thiếu estrogen, các tế bào osteoclast gia tăng hoạt động, cắn phá, tạo những lỗ hổng trong xương, trước con mắt bất lực của các tế bào osteoblast. Lâu dần, lòng xương không còn đặc, chắc như trước, và xương trở nên xốp rỗng, mềm, dễ gãy.

Như vậy, chất kích thích tố nữ estrogen là lính canh cửa cần mẫn, ngăn không cho thời gian ăn cắp mất xương của người phụ nữ. Trong khoảng tuổi 45 đến 55, người phụ nữ mãn kinh, chất estrogen đột ngột giảm đi trong cơ thể, trộm thời gian tha hồ tung hoành. Có vị mất đến 25% độ đặc của xương (bone density), chỉ trong vòng 5-7 năm sau khi mãn kinh.

Ai dễ bị bệnh xốp xương?

Nhiều yếu tố khiến tình bạn giữa ta và xương dễ mất, xương bỏ ta ra đi:
– Tuổi tác: càng cao tuổi, ta càng mất xương dần. Nếu xương mất nhiều quá, sẽ đưa đến bệnh xốp xương.
– Phụ nữ: trong 100 trường hợp bệnh xốp xương, 80 người là phụ nữ.
– Gia đình có người gãy xương do bệnh xốp xương (nhất là gãy xương hông ở mẹ).
– Người lớn đã từng gãy xương, nhất là ở những nơi hay bị bệnh xốp xương như xương sống, xương hông, xương cổ tay.
– Mãn kinh sớm (trước tuổi 45).
– Người cả đời ít dùng chất calcium và sinh tố D.
– Đời sống ít hoạt động, ít thể dục thể thao.
– Hút thuốc lá.
– Uống rượu nhiều quá.
– Người gầy, nhẹ cân.

Ngoài ra, những người mang bệnh cường tuyến giáp trạng (hyperthyroidism) hoặc dùng thuốc steroid lâu ngày cũng dễ bị xốp xương.

Triệu chứng

Xốp xương là một căn bệnh khởi đầu thầm lặng. Nó lặng lẽ ở với nhiều người qua những năm tháng, cho tới khi người ấy đột nhiên bị gãy xương.

Khi xương sống (spine) đã trở thành mềm và yếu do mất xương nhiều quá, nó cứ gãy dần, từ từ, ít một. Có khi chỉ cần ho một tiếng, hoặc cúi xuống bế cháu đang khóc, cũng đủ khiến xương sống gãy thêm một chút. Lâu ngày, xương sống gãy đã nhiều lần, mà ta không hay biết, sẽ ngắn dần, làm người thấp đi. Nhiều người thấy quần mình tự nhiên sao dài hơn trước, hoặc quần áo vẫn mặc nay hơi kỳ kỳ, không còn thực vừa ý. Sau cùng, một ngày kia, họ bắt đầu thấy đau, lưng còng đi, rồi đi lại khó khăn. Đi chợ trời mưa hay té ngã.

Té ngã như vậy lại gây gãy xương ở những chỗ khác, những xương đã mềm sẵn, mỏng mảnh như pha-lê. Có người chỉ va tay vào cạnh bàn, đã gãy cổ tay. Gãy xương cổ tay gây trở ngại biết bao cho những công việc hàng ngày, ngay cả với những công việc giản dị nhất. Giặt giũ, cơm nước, mặc quần áo, may vá, làm vườn, đi chợ, trông cháu, …, đều đòi hỏi một xương cổ tay mạnh và khéo léo.

Có người gãy xương hông (hip), dù chỉ ngã rất nhẹ. Gãy xương hông đưa đến chết người, sống được cũng khổ lắm. Hơn một nửa số người sống sót sau khi gãy xương hông vào nhà dưỡng lão, hoặc phải nhờ người giúp khi đi lại.

Định bệnh

Xốp xương là căn bệnh thầm lặng, việc truy tìm căn bệnh trong giai đoạn sớm của nó không dễ. Gần đây, với những hiểu biết mới, việc truy tìm căn bệnh không còn khó.

Bác sĩ sẽ nghi bạn mang bệnh xốp xương “osteoporosis” nếu bạn hay đau lưng, nay thấp nhỏ đi, lưng còng hơn trước theo gánh nặng thời gian, hoặc bạn bị gãy xương, đặc biệt tại nơi dễ bị bệnh xốp xương (như xương sống, xương hông, xương cổ tay). Nhất là bạn lại có những yếu tố dễ đưa đến bệnh xốp xương kể trên.
Nghi là một chuyện, nhưng bạn có thực sự bị bệnh xốp xương hay không, chúng ta cần hỏi ý kiến của máy đo độ đặc xương (bone densitometry), vì nó có thể cho biết thực sự ta đã mất đến bao nhiêu xương. Có nhiều cách để đo độ đặc xương. Cách đo bằng máy có tên “dual energy X-ray absorptometry”, viết tắt DXA, hiện được xem là cách đo độ đặc xương hữu dụng nhất.Máy đo DXA cho kết quả nhanh chóng, chính xác, lại phóng ra chất phóng xạ tối thiểu, nên không gây hại cho người được đo xương. Máy có thể đo độ đặc của bất cứ xương nào trong cơ thể, nhưng thường được dùng để đo xương sống, xương hông, những xương hay bị bệnh xốp xương tấn công. Máy hoạt động nhanh chóng, trong vòng 5-10 phút là xong, bạn không phải nằm lâu mỏi lưng.So với các trị số độ đặc xương của một phụ nữ bình thường trước tuổi mãn kinh, nếu máy đo cho thấy độ đặc xương của bạn trong khoảng 1 đến 2.5 dưới các trị số bình thường của phụ nữ trước tuổi mãn kinh ấy, xương của bạn đã bị mất đi ít nhiều rồi đấy. Nếu máy đo DXA cho thấy các trị số độ đặc xương của bạn còn tệ hơn thế, tức dưới 2.5, bạn quả thực đã bị bệnh xốp xương, với triển vọng bị gãy xương rất cao.Vẫn còn một ít bàn cãi về những trường hợp nào cần dùng đến máy đo độ đặc xương DXA. Nên “Đo Xương Ai”? Ai sau tuổi mãn kinh cũng cần được đo xương chăng?- Các vị phụ nữ 65 tuổi trở lên nên được đo độ đặc xương. (Vì vậy, Medicare cho các vị phụ nữ 65 trở lên đo dộ đặc xương mỗi 2 năm.)- Các phụ nữ đã mãn kinh dưới 65 tuổi, song trước từng gãy xương, hoặc nhẹ cân, đang dùng thuốc steroid (như Prednisone), hút thuốc lá, uống rượu nhiều, mang bệnh viêm khớp rheumatoid (rheumatoid arthritis), có phim chụp (X-ray) cho thấy xương trông mỏng (osteopenia), hoặc có bố, mẹ từng gãy xương hông, cũng nên đo độ đặc xương.- Nói chung, đo độ đặc xương không cần thiết trước tuổi mãn kinh (mãn kinh tự nhiên, hoặc do đã cắt buồng trứng). Tuy vậy, nên nghĩ đến việc đo độ đặc xương cho những người đang mang những bệnh, hoặc dùng những thuốc khiến xương dễ bị mất, dù họ chưa mãn kinh.

Chữa trị bằng thuốc

Trong xương lúc nào cũng có tiến trình phá xương cũ, tạo xương mới. Khi có sự bất quân bình, phá xương nhiều hơn tạo xương, xương mất nhiều quá, bệnh xốp xương xảy ra.

Ở Mỹ, hiện có 4 nhóm thuốc thường được dùng để chữa bệnh xốp xương: bisphosphonates, calcitonin, Evista, estrogen. Cả 4 thuốc đều có tác dụng ngăn cản sự phá xương.

1. Nhóm thuốc bisphosphonates:

Gồm các thuốc Fosamax, Actonel, Atelvia, Boniva, uống hàng ngày, mỗi tuần hoặc mỗi tháng một lần tùy thuốc.
Các thuốc bisphosphonates giúp tạo xương mới, bớt mất xương cũ, nên dùng để chữa và ngừa xốp xương. Hiện đây là những thuốc chính để chữa căn bệnh.
Thuốc uống vào sáng sớm lúc mới thức, với một ly nước đầy, trước khi ăn sáng, trước khi uống các thuốc khác ít nhất 30-60 phút. (Trừ thuốc Atelvia lại uống ngay sau bữa sáng.) Sau đó, không nên đi nằm lại, mà ngồi thẳng, đứng hoặc đi, để thuốc dễ xuống bao tử. Nếu thuốc kẹt lại tại thực quản (ống dẫn thức ăn xuống bao tử), nó có thể làm lở thực quản đâm phiền. Nó cũng không muốn ta ăn, uống gì cả trong vòng 30-60 phút sau khi dùng nó, vì thức ăn, ngay cả cà-phê và nước trái cây, làm giảm sự hấp thụ nó trong ruột. Uống nước thì được.
Thuốc có thể gây nóng ngực, viêm thực quản (esophagitis), đau bụng, tiêu chảy, hoặc các triệu chứng tiêu hóa khó chịu khác.

Gần đây còn có hai thuốc Reclast, Zometa (truyền tĩnh mạch một năm một lần trong 15 phút). Thuốc mới nên rất đắt (trên 1.000 Mỹ-kim một mũi thuốc), và nếu dùng thuốc lâu dài nhiều năm có nguy hại gì cho cơ thể ta không, điều này chưa được biết rõ.

2. Thuốc Evista:

Evista (raloxifene) dùng với chỉ định để chữa và ngừa xốp xương cho các phụ nữ đã mãn kinh. Thuốc có tác dụng rất tương tự với chất estrogen, nhưng không làm tăng nguy cơ bị ung thư vú, bệnh tim mạch nếu dùng về lâu về dài như estrogen.
Giống chất estrogen, thuốc Evista ngăn sự phá xương. Ở các phụ nữ mãn kinh chưa bị xốp xương, thuốc Evista giúp ngăn sự mất xương tại tất cả các xương của cơ thể. Khác với các thuốc chứa chất estrogen, thuốc Evista không gây đau vú, hoặc ra kinh lại. Trong vòng vài tháng đầu mới dùng thuốc, Evista có thể gây những cơn hừng nóng mặt nhẹ (hot flashes). Thuốc Evista uống mỗi ngày.
So với các thuốc thuộc nhóm bisphosphonates, Evista tác dụng kém hơn.

3. Thuốc calcitonin:

Thuốc calcitonin, từ lâu đã được dùng để chữa xốp xương dưới dạng chích bắp thịt và chích dưới da. Như thế thì đau và bất tiện lắm, nên calcitonin không nổi tiếng. Gần đây, nhà thuốc đổi chiến thuật, chế thành thuốc xịt mũi cho tiện, lấy tên Miacalcin. Một xịt vào một bên mũi mỗi ngày, nay mũi phải, mai mũi trái.

Kiên nhẫn dùng, thuốc xịt Miacalcin cũng làm tăng độ đặc của xương và làm giảm gãy xương. Tuy vậy, so với các thuốc bisphosphonates, tác dụng của Miacalcin, trong việc tạo thêm xương mới, ngừa gãy xương, không mạnh bằng.
Thuốc xịt mũi Miacalcin ít gây phản ứng, nếu có, mũi bị khô, khó chịu tí tỉnh, hoặc thỉnh thoảng hắt xì.

4. Estrogen:

Chất estrogen có tác dụng chữa và ngừa xốp xương rất tốt, tuy nhiên, nay không còn được sử dụng nhiều để ngừa và chữa xốp xương như trước, vì về lâu về dài, estrogen có thể làm tăng nguy cơ bị ung thư vú, bệnh tim mạch.
Các thuốc chứa chất estrogen trên thị trường rất nhiều (Premarin, Ogen, Estrace, Menast, Estratab, Gynodiol, Ortho-Prefest, Activella, femhrt, Premphase, Prempro, …), nay thường chỉ được dùng để chữa các triệu chứng gây do mãn kinh như hừng nóng mặt, khó ngủ, buồn sầu, khô ngứa âm đạo, đi tiểu nhiều lần, tiểu khó, …

Một số vị phụ nữ không hợp với các thuốc chữa xốp xương khác, nên đành dùng estrogen để chữa bệnh vậy.

Những cách chữa không thuốc

Chữa bệnh xốp xương, không phải chỉ sử dụng một trong những thuốc kể trên là xong, chúng ta còn cần ăn uống đầy đủ, không thiếu calcium và sinh tố D trong người, vận động thường xuyên, ngưng hút thuốc lá, và nếu có thể, bỏ bớt những thuốc đang dùng có thể gây rỗng xương thêm.

Việc ăn uống mỗi ngày cần đầy đủ để cơ thể khỏi suy dinh dưỡng. Cùng với ăn uống, mỗi ngày ta cần 1200 mg calcium (từ các nguồn thực phẩm hoặc từ viên calcium uống vào) và 800 đơn vị (International Unit) sinh tố D. Ngoài thị trường hiện có nhiều viên thuốc vừa chứa cả calcium lẫn sinh tố D như Os-Cal with vit D.

Việc vận động rất quan trọng. Ở phụ nữ có tuổi, người ta thấy vận động giúp duy trì hoặc làm tăng độ đặc của xương, giảm nguy cơ gãy xương hông. Vận động không những khiến xương chắc, các bắp thịt ta cũng dẻo dai, mạnh mẽ, những yếu tố ngừa té ngã. Các thể dục đặt sức nặng của cơ thể trên xương, như đi bộ, đều tốt. Đi bộ ít nhất 3 lần một tuần, ít nhất 30 phút mỗi lần. Nên tập thói quen vận động, và chọn môn thể dục nào chúng ta ưa thích để vận động được thường xuyên và lâu dài, vì ngưng vận động, các lợi ích của vận động trên xương sẽ mau chóng mất.

Thuốc lá độc cho xương, như độc cho nhiều cơ quan khác, khiến xương rỗng nhanh hơn, người hút thuốc lá cần bỏ hút.

Một số thuốc dùng lâu ngày có thể làm xương thêm xốp, rỗng, như các thuốc Prednisone, Nexium, Omeprazole, nếu có thể, chúng ta nên ngưng. (Nhiều vị uống các thuốc bao tử Nexium, Omeprazole năm này sang năm khác vì thói quen hơn là cần thiết phải uống, đi khám bác sĩ, bác sĩ cứ thế tiếp tục cho, không buồn thẩm định lại để xem người bệnh còn cần thuốc này hay không, và cũng không hướng dẫn cho người bệnh biết tác dụng phụ có thể làm rỗng xương, gãy xương của thuốc nếu dùng thuốc quá lâu.)

Sưu Tầm

.
Feb 21 - 2016 (11)
Chuyển đến trang   1 2  3  4  5  6  7  8  9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19